Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đảng cầm quyền không chỉ là cơ sở khoa học, nền tảng lý luận cho sự ra đời và
phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn là yếu tố quyết định sự thành
công của cách mạng Việt Nam.
Những chỉ dẫn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo, cầm quyền khoa học, dân chủ và đạo
đức trong Đảng… luôn được Đảng ta kế thừa và vận dụng trong công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Hiện nay, trước những thời cơ và thách
thức của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi Đảng cần phát huy
hơn nữa vai trò lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đảng cầm quyền
Đảng cầm quyền là một
trong những vấn đề quan trọng, luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”(1). Đây là một lời khẳng định, nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta
phải ghi nhớ và thực hiện trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Về vai trò của Đảng cầm
quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của Đảng là lãnh đạo nhân dân đánh
đuổi đế quốc, lật đổ chế độ phong kiến, giành lấy độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Lực lượng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực
lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”(2). Sau thành công của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức trở thành đảng
cầm quyền, lãnh đạo và chỉ đạo mọi hoạt động, mọi mặt của đời sống xã hội, chăm
lo từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần cho nhân dân. Nhiệm vụ của Đảng
sau khi có chính quyền: “Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và
văn hoá lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng
thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết
cho đời sống hằng ngày của nhân dân”(3).
Trong quá trình lãnh
đạo và cầm quyền của Đảng, Người chỉ rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa
nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày,
khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (4). Nghĩa là, năng lực cầm
quyền của Đảng phải để cho nhân dân tự giác thừa nhận, tin tưởng và ủng hộ.
Để làm tốt vai trò lãnh
đạo của một đảng cầm quyền thì vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là Đảng
phải lãnh đạo nhân dân xây dựng một chính quyền nhà nước, công cụ sắc bén và
thiết yếu để tổ chức xây dựng xã hội mới và bảo vệ thành quả cách mạng, với cơ
chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, vì mọi “quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân”(5). Trách nhiệm của Đảng cũng như của từng cán bộ,
đảng viên của Đảng là phụng sự cho độc lập, tự do của Tổ quốc, phục vụ cho lợi
ích của nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng trí tuệ, bằng lương tâm, đạo đức cách mạng
của mỗi cán bộ, đảng viên; không phải chỉ bằng lời nói, mà phải bằng hành động,
việc làm thiết thực.
Về cách thức tổ chức
xây dựng Đảng cầm quyền, để xây dựng Đảng trở thành một tổ chức chính trị vững
mạnh, thống nhất, đoàn kết, xứng đáng với vai trò là “hạt nhân lãnh đạo”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến công tác tổ chức đảng cầm quyền. Người
khẳng định: “Trong Đảng và Nhà nước ta có sự phân công chặt chẽ như các bộ phận
trong chiếc đồng hồ: Cái kim, dây cót khác nhau nhưng hợp tác chặt chẽ với
nhau. Thiếu một bộ phận nào cũng không được”(6). Theo Người, trong công tác tổ
chức đảng, phải chú trọng tinh giản “tinh là năng suất lên cao, làm cho mau cho
tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”(7). Tinh giản cốt là
làm cho bộ máy trở nên gọn gàng và trong sạch, nhằm mục đích làm cho hệ thống
của Đảng hoạt động một cách có hiệu quả, tiết kiệm, không lãng phí sức người,
sức của.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thì công tác cán bộ là vấn đề
quan trọng hơn hết, bởi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(8). Cho nên, đối
với công tác cán bộ phải chọn lọc đảng viên một cách hết sức cẩn thận, cần chăm
lo giáo dục đảng viên để dù làm bất cứ việc gì hay ở đâu cũng phải phát huy
được tính tiên phong, gương mẫu của mình. Người nhấn mạnh: “Đảng không phải chỉ
cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng
viên”(9). Cái chất của người đảng viên ở đây là vào Đảng không phải để làm
“quan cách mạng” mà là làm “công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân”. Cán bộ, đảng
viên phải là người vừa có tài, vừa có đức, không chỉ là những người có trí, có
dũng, có nhân mà còn phải là người biết cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
phải biết “… “tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc”, nghĩa là lo trước dân, vui
sau dân” (10).
Về phương thức lãnh đạo
của Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xác định phương
thức lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền. Theo Người,
nếu trước khi chưa có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là mỗi
cán bộ, đảng viên phải trực tiếp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục
quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, “Đảng tuyên truyền đường
lối thông qua những cán bộ của mình. Khi tuyên truyền chính sách của Đảng, cán
bộ phải dùng cách thuyết phục chứ không được dùng mệnh lệnh và phải ra sức làm
cho quần chúng nông dân tin tưởng ở Đảng”(11). Sau khi có chính quyền, chính
quyền là công cụ mạnh mẽ nhất, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội.
Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục nhân dân, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng để tổ chức nhân dân thực hiện. Bằng cách đó, khi Nhà nước quản lý
xã hội bằng chính sách, pháp luật và nhân dân thực hiện, cũng tức là gián tiếp
thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên của
Đảng “phải kinh qua chính quyền mà thực hiện chính sách của Đảng” (12). Mọi
công việc đều phải thực hiện theo phương châm “Đảng lãnh đạo, thủ trưởng phụ
trách, công nhân tham gia quản lý” (13), cần tránh “việc gì cũng bí thư, cũng
Đảng ôm đồm làm cả, làm cho chủ tịch ủy ban hành chính trở nên kém tác
dụng”(14).
Để phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng thì công tác kiểm tra, giám sát là vấn đề quan trọng trong
phương thức lãnh đạo của Đảng. Theo Người: “Làm mà không kiểm tra thì không
biết kết quả ra sao, không hiểu sai lệch thế nào để kịp thời sửa chữa”(15). Mục
đích của việc kiểm tra, giám sát là bảo đảm cho cán bộ, đảng viên thực hiện đầy
đủ và đúng đắn đường lối, chủ trương và giữ vững được kỷ luật của Đảng và để
cho sau mỗi lần kiểm tra, giám sát thì những cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng
được kiểm tra ấy nếu có sai lầm, thiếu sót thì rút được kinh nghiệm và khắc
phục. Thông qua việc kiểm tra giám sát sẽ “giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa
khuyết điểm, phát triển ưu điểm”(16), làm cho tổ chức Đảng ngày càng trong
sạch, vững mạnh hơn.
Như vậy, Đảng cầm quyền
theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn diện,
sâu sắc về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh nhằm giữ vững và bảo đảm sự lãnh
đạo đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kế thừa và vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn
của Người trong quá trình lãnh đạo và cầm quyền, Đảng ta đã tiến hành công cuộc
đổi mới, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, kinh tế không
ngừng phát triển, chính trị - xã hội ổn định, đối ngoại mở rộng, đời sống nhân
dân ngày càng được cải thiện. Điều đó minh chứng sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Những thành tựu đáng tự
hào
Với cách thức tổ chức
và phương thức lãnh đạo, cầm quyền khoa học, dân chủ, Đảng ta đã ban hành những
quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, góp phần quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế, tạo nền tảng và cơ
sở vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững; chất lượng sống của người
dân được nâng lên. Trong những năm qua, những thành tựu đó được thể hiện toàn
diện trên các lĩnh vực:
Một là, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, những năm qua, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao,
tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Năm 2020, GDP
ước đạt 268,4 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người ước đạt 2.750
USD/người/năm. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng
từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Các hoạt
động sản xuất, kinh doanh tiếp tục phát triển; du lịch phát triển nhanh; nông
nghiệp chuyển mạnh sang ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hàng hoá, nâng cao
chất lượng và hiệu quả; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả
quan trọng làm thay đổi diện mạo nông thôn, đời sống người dân được nâng cao;
kinh tế số bước đầu được chú trọng phát triển.
Hai là, phát triển kinh
tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi
đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Quy mô giáo dục - đào tạo tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất giáo dục
được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực.
Chính sách an sinh xã
hội được đẩy mạnh, diện bao phủ bảo hiểm xã hội được mở rộng, tỷ lệ lao động
trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội năm 2020 đạt 32,7%. Mở rộng diện
đối tượng hưởng trợ cấp xã hội. Hằng năm, đã hỗ trợ hàng chục vạn tấn gạo
cho các địa phương để kịp thời hỗ trợ cho người nghèo và người bị ảnh
hưởng bởi thiên tai, bão lụt và huy động hàng nghìn tỷ đồng hỗ trợ người
nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội. Hệ thống y tế dự phòng từ Trung ương đến địa
phương và mạng lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển; đã từng
bước kiểm soát dịch bệnh COVID-19, được ghi nhận và đánh giá cao.
Ba là, thực hiện có
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản,
chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên. Đề cao trách
nhiệm của cấp ủy, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng
đầu các cấp; phát huy dân chủ; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; huy
động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của
nhân dân, góp phần nâng cao vị thế cầm quyền, khẳng định vai trò lãnh đạo,
đường lối đúng đắn của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Bốn là, quan hệ đối
ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng và hiệu quả. Trong
đó, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh với nhiều hiệp định thương mại thế
hệ mới được ký kết, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Thương
mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA)… Việt Nam luôn chủ động và
tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương, trở thành đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, hội nhập ngày càng
sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, từng bước mở rộng hội nhập vào tất cả các
lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội…
Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng
Nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng
định: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng” (17), theo đó, cần tập trung thực hiện một số giải
pháp:
Thứ nhất, không ngừng
bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng
bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng. Tiếp tục nâng
cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cấp
chiến lược; tích cực đấu tranh, phản bác có hiệu quả luận điệu sai trái của các
thế lực thù địch. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, quy định của Đảng;
thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Thứ hai, tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị...,
đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế
gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Cần rà soát, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của
các tổ chức trong hệ thống chính trị, khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo.
Thứ ba, tiếp tục tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những hành vi vi
phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước. Cần đổi mới, tăng cường, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy
ban kiểm tra các cấp, xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên
vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho
khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực, lãng phí, kiên quyết xử
lý, đưa ra khỏi hệ thống chính trị những cán bộ, đảng viên không có tinh thần
tự giác rèn luyện, tha hóa, biến chất, không có đức, có tài, thông qua đó, sàng
lọc những phần tử yếu kém, nâng cao chất lượng của bộ máy tổ chức Đảng.
Thứ tư, tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm
chất và uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, trách
nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên có ảnh hưởng quyết định đến uy tín, danh dự của
Đảng, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, đến niềm tin
của nhân dân đối với Đảng. Do đó, phải phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu,
tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Các cấp uỷ, tổ chức
đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cần tự soi, tự sửa chính
mình, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình gắn với thực hiện Nghị quyết,
Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị; thực hiện nói đi đôi với làm, không nể nang, né tránh,
tìm ra những ưu điểm để phát huy, có các biện pháp khắc phục, sửa chữa sai lầm,
yếu kém, khuyết điểm một cách thiết thực, hiệu quả.
Thứ năm, luôn coi trọng
bài học “lấy dân làm gốc”, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cán bộ,
đảng viên của Đảng với nhân dân, phải tin dân, dựa vào dân, thường xuyên học
hỏi nhân dân, phát huy quyền làm chủ và sức mạnh to lớn của nhân dân. Mỗi tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên phải thật sự tiên phong, gương mẫu, có tinh thần
trách nhiệm trước dân, gần dân, tôn trọng dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của dân, trong mọi công việc cần phát huy tinh thần dân chủ, có sự bàn bạc
và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng, thiết thực của
nhân dân, gương mẫu về đạo đức, lối sống./.
SX