Quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về bản lĩnh chính trị của Đảng cách mạng có ý nghĩa sâu sắc cả về
lý luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị hiện nay.
Trong điều kiện đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc
tế sâu rộng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng càng phải không ngừng rèn
luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng.
Bản lĩnh Hồ Chí Minh -
bản lĩnh chính trị của Đảng chân chính cách mạng
Ngay từ đầu những năm
20 của thế kỷ XX, khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng
Cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh chính trị
với những quan điểm rất riêng và sáng tạo. Khi đó, Quốc tế Cộng sản chưa nhìn
nhận đầy đủ vai trò của cách mạng thuộc địa và cho rằng, cách mạng ở các nước
thuộc địa chỉ có thể thắng lợi sau khi cách mạng vô sản thắng lợi ở các nước tư
bản (chính quốc). Tháng 5-1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng các nước
thuộc địa ở châu Á có thể chủ động giành thắng lợi và còn “có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Là người
hoạt động quốc tế sôi nổi, nhất là trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc rất
coi trọng tranh thủ sự ủng hộ, đoàn kết, giúp đỡ của đồng chí, bạn bè quốc tế
đối với sự nghiệp giải phóng của dân tộc mình. Nhưng Người ý thức rất rõ là
phải dựa vào thực lực của chính mình để tự giải phóng, “muốn người ta giúp cho,
thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Ý chí tự lực, tự cường của Người là
rất rõ ràng và đã trở thành ý chí của toàn Đảng và toàn dân tộc.
Ở một nước thuộc địa,
phong kiến lạc hậu như Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ chính sách tàn bạo của
chủ nghĩa thực dân Pháp; từ đó, Người đã viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Ở
xứ thuộc địa, mâu thuẫn dân tộc là cực kỳ gay gắt; vì vậy, đấu tranh giải phóng
dân tộc phải được đặt lên hàng đầu, chứ không phải là đấu tranh giai cấp như ở
các nước tư bản phương Tây. Đó là điều rõ ràng trong quan điểm của Nguyễn Ái
Quốc. Các giai cấp bóc lột ở Việt Nam (địa chủ, tư sản) đều nhỏ bé, một bộ phận
có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. “Cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ở phương Tây”. “Nếu nông dân gần như chẳng có gì thì
địa chủ cũng không có tài sản gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu
cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền
không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc
lột của họ là máy móc; người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có tơrớt.
Người thì cam chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của
mình. Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối
cãi được”. “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”.
Do đặc điểm và mâu
thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp như thế, nên khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (tháng 2-1930), trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
nêu rõ mục tiêu chiến lược là: Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập, để đi tới xã
hội cộng sản. Đảng chủ trương tranh thủ mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội vào
thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Quan điểm đó của Nguyễn Ái Quốc đã không
được Quốc tế Cộng sản và một số đồng chí hiểu đúng, thậm chí còn cho là biểu
hiện của chủ nghĩa quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên trì
giữ vững quan điểm nêu cao đấu tranh dân tộc, và phải đến Đại hội VII Quốc tế
Cộng sản (tháng 7-1935), một số đồng chí trong Quốc tế Cộng sản mới chia sẻ với
quan điểm của Nguyễn Ái Quốc, khi Quốc tế Cộng sản chủ trương các đảng cộng sản
phải lập Mặt trận dân tộc, dân chủ chống nguy cơ chủ nghĩa phát-xít, nguy cơ
chiến tranh thế giới. Ngày 6-6-1938, Nguyễn Ái Quốc có thư gửi một đồng chí ở
Quốc tế Cộng sản nêu rõ mình đã 8 năm trong “tình trạng không hoạt động”, vì
thế “Điều tôi muốn đề nghị với đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình
trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”.
Năm 1938, Quốc tế Cộng
sản đồng ý để Nguyễn Ái Quốc trở về nước để lãnh đạo phong trào cách mạng. Cần
nhấn mạnh rằng, thực tiễn cách mạng Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XX đã
chứng minh quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là đúng đắn, sáng tạo, không giáo điều.
Hội nghị Trung ương Đảng (tháng 11-1939) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì,
họp ở Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) đã chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu. Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc ở Hà Quảng, Cao
Bằng. Tại đây, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
tám (tháng 5-1941). Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh đường lối giải phóng dân tộc
với mục tiêu giành cho được độc lập, với tinh thần độc lập trên hết, dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết. Vấn đề lợi ích giai cấp phải phục tùng lợi ích dân
tộc: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh
tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc,
thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Chủ trương đúng đắn đó
đã đoàn kết mọi lực lượng có thể và phát huy được sức mạnh toàn dân tộc quyết
“đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, để làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Trên tầm cao nhận thức, giành được độc lập, tự do cho dân
tộc đã có lợi ích của bộ phận, giai cấp trong đó. Giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp đã thể hiện bản lĩnh chính trị và
tầm trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhắc lại quan điểm phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn của
đất nước, không nên “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu
giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho
đúng”.
Những năm 1945 - 1946,
cách mạng Việt Nam phải chống giặc ngoài, thù trong, tình thế “nghìn cân treo
sợi tóc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng tỏ rõ bản lĩnh và sự nhạy cảm
đặc biệt về chính trị, đã quyết tâm bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách
mạng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời có những quyết sách khôn khéo,
“dĩ bất biến ứng vạn biến”. Ngày 11-11-1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, thực
chất là rút vào hoạt động bí mật, bảo toàn lực lượng. “Đảng phải dùng mọi cách
để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn,
và để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố
Mặt trận dân tộc thống nhất. Lúc đó, Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết,
Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những phương pháp - dù là những
phương pháp đau đớn - để cứu vãn tình thế”.
Trong lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng tư duy sáng tạo, phân
tích hoàn cảnh cụ thể của đất nước, kết hợp với việc học hỏi kinh nghiệm các
nước, nhưng không máy móc, giáo điều. Năm 1956, Người đã nhận thức “Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên
Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”. “Còn giai cấp tư sản ở
ta thì họ có xu hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước... cho nên, nếu mình
thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội”. Năm
1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích điều kiện của Việt Nam vừa thoát khỏi ách
thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu. “Trong những điều kiện như thế, chúng ta
phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay”.
Người chỉ rõ: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để
dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta.
Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của
cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”.
Trong quá trình lãnh
đạo và cầm quyền, Đảng cũng phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm, hoặc trên
những vấn đề lớn, hoặc trong phạm vi hẹp hay ở một số đồng chí. Đó là, sai lầm
“tả” khuynh trong Chỉ thị thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ (năm 1931), Trung ương
đã kịp thời phê phán khuyết điểm của một số đồng chí trong hợp tác vô nguyên
tắc với các phần tử tơ-rốt-xkít và về công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng; là việc tồn tại 2 Xứ ủy (Xứ ủy Tiền Phong và Xứ ủy Giải Phóng) ở Nam Kỳ
trước Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. Khi Đảng nắm chính quyền, một số cán bộ đã
phạm những lầm lỗi: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời phê bình và yêu cầu sửa chữa. Khi xảy ra sai lầm
trong cải cách ruộng đất (năm 1956), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tự phê bình trước nhân dân và quyết tâm sửa sai. Tự chỉ trích, tự phê bình khi
phạm sai lầm là yêu cầu đối với một đảng chân chính cách mạng. Người nêu rõ:
“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan
thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm
đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa
khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng của
Người đã, đang và sẽ mãi mãi soi sáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và
dân tộc. Bản lĩnh Hồ Chí Minh chính là bản lĩnh chính trị của Đảng chân chính
cách mạng, thể hiện ở những nội dung chủ yếu: Một là, Đảng nêu cao khát vọng
độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng bào; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng
đầu, đồng thời tuyệt đối trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa; trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng không xa rời
những mục tiêu chiến lược căn bản đó. Hai là, độc lập, tự chủ, luôn luôn tinh
thần xuất phát từ thực tiễn của cách mạng, đất nước để vận dụng sáng tạo lý
luận khoa học Mác - Lê-nin, lựa chọn hình thức, phương pháp đấu tranh thích hợp
và phương châm, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả. Kiên quyết
chống chủ nghĩa xét lại, cơ hội “tả” khuynh, “hữu” khuynh; đồng thời, chống
giáo điều, nóng vội, duy ý chí. Ba là, nắm vững nguyên tắc cách mạng, đồng thời
linh hoạt, mềm dẻo về sách lược “dĩ bất biến ứng vạn biến”; chủ động, kiên
cường vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kiên quyết giữ vững nền độc lập, vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, không hoang mang, dao động trong hoàn cảnh hiểm
nghèo, vững tin ở thắng lợi. Bốn là, thẳng thắn thừa nhận những sai lầm, khuyết
điểm với thái độ nghiêm túc, cầu thị và quyết tâm sửa chữa. Những sai lầm,
khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo, cầm quyền đều được Đảng sửa chữa có kết
quả, từ đó củng cố được niềm tin của nhân dân, tăng cường thống nhất, tinh thần
đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Rèn luyện, nâng cao bản
lĩnh chính trị - nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
nói chung và xây dựng Đảng về chính trị nói riêng
Rèn luyện, nâng cao bản
lĩnh chính trị có mối quan hệ mật thiết với các nội dung xây dựng Đảng về chính
trị và có ảnh hưởng lớn đến cả xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận, đạo đức, tổ
chức và cán bộ. Nâng cao bản lĩnh chính trị là yêu cầu đặt ra với Đảng và cũng
là yêu cầu đặt ra với từng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp chiến lược.
Báo cáo chính trị, Báo
cáo về công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng và Nghị quyết của Đại
hội XIII, đều đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng Đảng cả về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Những nội dung cơ bản đó trong xây dựng Đảng
có quan hệ mật thiết và quyết định lẫn nhau, để hướng tới mục tiêu chính trị là
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xét đến cùng, vấn đề
xây dựng Đảng về chính trị của một đảng lãnh đạo, cầm quyền như Đảng ta có ý
nghĩa quyết định bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, bản chất nhân
dân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo cáo chính trị Đại
hội XIII của Đảng nhấn mạnh, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị với nội dung
căn bản: “Kiên định và không ngừng vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai
đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường
lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng. Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất lượng công tác hoạch định
đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của
thời đại. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự
yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản
lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và
của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các
cấp, cán bộ cấp chiến lược. Thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng”.
Từ thực tiễn đổi mới,
Đảng ta rút ra nhiều bài học kinh nghiệm. Trong đó, bài học hàng đầu là: “Công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng
bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Kinh
nghiệm trước hết trong công tác xây dựng Đảng là: “nâng cao bản lĩnh chính trị;
kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng; kịp thời tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận để đổi mới sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ; đấu tranh
kiên quyết với những biểu hiện cơ hội chính trị”.
Từ những chỉ dẫn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ kinh nghiệm, bài học xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi
mới, nội dung, phương hướng xây dựng Đảng về chính trị hiện nay cần được chú
trọng trên những vấn đề lớn:
Thứ nhất, trên cơ sở
tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, không ngừng bổ sung, phát triển đường
lối đổi mới, cương lĩnh xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong xây dựng Đảng về
chính trị, vấn đề hàng đầu là xây dựng, hoàn chỉnh và bảo đảm tính đúng đắn của
cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng. Đó cũng là điều kiện cơ
bản cho sự lãnh đạo, cầm quyền thành công của Đảng Cộng sản. Cương lĩnh, đường
lối bao giờ cũng là sự kết hợp giữa nguyên lý lý luận, quy luật khách quan với
đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, của cách mạng ở mỗi thời kỳ và phải
luôn xuất phát từ thực tiễn để vận dụng, phát triển lý luận một cách sáng tạo.
Nhờ vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về
chiến tranh cách mạng mà Đảng đề ra đường lối cách mạng giải phóng và đường lối
kháng chiến thích hợp để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến toàn thắng. Trong
đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trước đổi mới đã có lúc Đảng chưa nhận
thức đúng đắn các quy luật, rơi vào nóng vội, chủ quan, duy ý chí nên đã mắc
phải những sai lầm, khuyết điểm. Đường lối đổi mới của Đại hội VI (tháng 12-1986)
vừa sửa chữa khuyết điểm, vừa đổi mới tư duy lý luận để nhận thức rõ hơn về chủ
nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của
Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) được bổ sung, phát triển năm
2011 chính là sự tiếp nối tư duy đó. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục phát triển
lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ nhiều vấn đề mới do sự vận động và phát
triển của đất nước và thời đại đặt ra.
Đại hội XIII của Đảng
cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa trung thành với lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh với không ngừng phát triển lý luận, đổi mới nhận thức. Trung thành
mà không thể phát triển thì sẽ sa vào giáo điều, bảo thủ, trì trệ; phát triển mà
không trung thành sẽ có thể mắc vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chệch hướng.
Mối quan hệ giữa kiên định nguyên tắc với đổi mới sáng tạo phải luôn luôn được
đặt ra với Đảng, với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp chiến lược - đội ngũ có vai trò hoạch định đường lối.
Nhiều vấn đề xây dựng
Đảng về chính trị đang đặt ra đối với đường lối, chủ trương lớn, những quyết
sách chiến lược của Đảng cần có giải pháp xử lý kịp thời, gắn liền với việc
hoàn chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh
tới mối quan hệ giữa các quy luật của thị trường với định hướng xã hội chủ
nghĩa, giữa nhà nước với thị trường và xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, thì chính sách, pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hóa đường lối
của Đảng và do đó, có quan hệ mật thiết với xây dựng Đảng về chính trị. Chính
sách, pháp luật càng hoàn thiện, có hiệu lực, chính là hiện thực hóa có hiệu
quả đường lối, Cương lĩnh của Đảng. Đại hội XIII của Đảng bổ sung một mối quan
hệ lớn rất quan trọng, đó là quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp
chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đây là vấn đề lớn về chính trị, xã hội của Đảng
Cộng sản cầm quyền. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng” cũng là thuộc phạm trù Đảng lãnh đạo chính trị, xây
dựng nền chính trị vì dân và do đó, cũng là yêu cầu xây dựng Đảng về chính trị.
Thứ hai, giữ vững bản
chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ, trí tuệ của
Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến
lược.
Bản chất giai cấp công
nhân của Đảng là sự hy sinh, phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì chủ
nghĩa xã hội, giải phóng triệt để dân tộc, giai cấp, xã hội và con người; là
tính tiền phong cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng và khát vọng xây
dựng, phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc; là phẩm chất chính
trị cao đẹp, đức hy sinh, ý thức tổ chức, tính kỷ luật, phong cách làm việc
nghiêm túc, tinh thần tập thể gắn liền với tác phong công nghiệp. Trong thời
đại cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, trí tuệ nhân tạo ngày
càng phát triển mạnh mẽ, thì bản chất giai cấp công nhân còn là trình độ trí
tuệ, là nền học vấn hiện đại. Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý phải thật sự tiêu biểu về trí tuệ.
Bản lĩnh chính trị của
Đảng cần được nhận thức sâu sắc như điều kiện bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ
mệnh của một đảng chân chính cách mạng lãnh đạo đất nước, xã hội. Đại hội XIII
của Đảng nhấn mạnh, trong điều kiện một thế giới đầy biến động, khó lường, phải
nâng cao “năng lực dự báo”, phân tích, đánh giá đúng đắn thực tiễn của đất nước
và “xu thế phát triển của thời đại”. Điều đó đòi hỏi Đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên cần luôn luôn nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và có sự
nhạy cảm đặc biệt về chính trị. Những quyết sách chính trị của Đảng phải bảo
đảm sự đúng đắn, chính xác, không bị động, bất ngờ trên tất cả các lĩnh vực.
Bản lĩnh chính trị của Đảng đặt ra yêu cầu mọi tổ chức đảng, cấp ủy, mỗi cán
bộ, đảng viên, “trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ
cấp chiến lược” phải nâng cao tính chiến đấu. Kiên quyết phê phán, loại bỏ
những sai trái, khuyết điểm, bảo vệ cái đúng, bảo vệ những cán bộ dám nói, dám
làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; dám đổi mới, sáng tạo, dám vượt qua
và có đủ bản lĩnh, năng lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành
nhiệm vụ.
Xây dựng Đảng về chính
trị luôn luôn hướng tới khả năng hiện thực hóa tốt nhất, có hiệu quả nhất cương
lĩnh, đường lối của Đảng, tức là thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng, của
giai cấp và dân tộc. Sau khi đã có đường lối đúng đắn, thì toàn bộ vấn đề là ở
năng lực thực hiện đường lối, là hành động thực tiễn. Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục đưa ra nhận định rằng, khâu tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế,
yếu kém. Cần phải nâng cao hơn nữa khả năng cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối
của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời “khắc phục sự yếu
kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện”.
Thứ ba, xây dựng Đảng
về chính trị là thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, đề cao trách nhiệm của
Đảng trước đất nước và nhân dân.
Trong công cuộc đổi
mới, Đảng kiên định lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi mới đã ngày càng làm sáng tỏ hơn nhận thức về chủ
nghĩa xã hội Việt Nam với 8 đặc trưng đã được xác định trong Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011). Một trong những đặc trưng đó là xây dựng xã hội “do
nhân dân làm chủ”; bởi vậy, cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xã hội là cơ sở rất
quan trọng và cũng là yêu cầu khách quan để phát huy và thực hành dân chủ rộng
rãi trong Đảng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh nội dung “Thực hành dân chủ
trong Đảng gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng”. Đó là nội
dung cần được nhận thức rõ và kiên trì thực hiện. Khi khởi đầu công cuộc đổi
mới, Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu đổi mới phong cách làm việc, khắc phục tình
trạng quan liêu xa rời thực tế, xa rời nhân dân; lãnh đạo bằng phương pháp dân
chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ.
Cần nhận thức rõ, nội
dung xây dựng Đảng về chính trị được Đại hội XIII nhấn mạnh là khẳng định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tính kiên định đó thể hiện trách
nhiệm cao của Đảng đối với đất nước và nhân dân trên con đường phát triển, đồng
thời cũng là trách nhiệm đối với lịch sử, đối với con đường mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân Việt Nam đã lựa chọn - sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời. Mục tiêu chính trị của Đảng, của dân tộc và con đường
phát triển đó là duy nhất đúng đắn, không thể là con đường nào khác.
Trách nhiệm chính trị
của Đảng đối với sự phát triển của đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc và sự
bình yên trong cuộc sống của nhân dân là rất quan trọng. Đó không chỉ là sứ
mệnh, là nguyên tắc mà còn là lương tâm, danh dự của Đảng. Điều 4 Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Trách nhiệm
của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, nhất là trách nhiệm của người đứng
đầu đều được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng về xây dựng Đảng và Đại hội
XIII của Đảng tiếp tục khẳng định điều đó. Thực tế cho thấy, ở ngành nào, lĩnh
vực nào, địa phương, đơn vị nào mà trách nhiệm chính trị được đề cao và thực
hiện nghiêm túc thì nơi đó đạt được nhiều thành quả trong sự phát triển, niềm
tin của nhân dân được củng cố, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của tổ chức đảng được nâng cao. Mọi biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu
trách nhiệm đều mang lại hậu quả tiêu cực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc,
vì thế mọi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị cần
nghiêm túc, chủ động ngăn chặn, đẩy lùi; góp phần xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh để xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân./.
--------------------
Nguồn: Tạp Chí Cộng Sản