Chiến
thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954) đã lùi xa được 68 năm, nhưng dư âm 55 ngày đêm chiến
đấu ngoan cường “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non” của
quân và dân Việt Nam vẫn âm vang khí thế hào hùng về “cột mốc bằng vàng” đánh dấu bước tiến thần kỳ của dân tộc
ta và mãi đi vào lịch sử như những chiến công hiển hách nhất, chói lọi
nhất thế kỷ XX, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, về trí tuệ và sức mạnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Sau Cách mạng
tháng Tám, nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, Pháp
trở lại xâm lược, đẩy nước ta vào tình thế hiểm nghèo “ngàn cân
treo sợi tóc”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi “toàn quốc kháng chiến”, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. Với đường lối
“kháng chiến, kiến quốc”, “toàn
dân, toàn diện, trường kỳ…”, quân và dân ta giành nhiều thắng lợi quan
trọng, có tính bước ngoặt. Đối với
Pháp, cử Nava sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp, đề ra kế hoạch Nava
nhằm kết thúc chiến tranh trong danh dự.
Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Bộ Chính trị đã họp bàn, đề ra chủ
trương chiến lược Đông Xuân 1953-1954: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về
chiến lược mà địch
tương đối yếu, có nhiều sơ hở nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất
đai, chủ động buộc địch phải phân tán lực lượng, tạo điều kiện thuận lợi để ta
tiêu diệt địch. Phương châm và nguyên tắc chỉ đạo
chiến lược: Tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn
chắc, chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không
đánh. Thực hiện chủ trương của Đảng, cuối năm 1953 đầu năm 1954, ta tiến công địch ở khắp chiến trường Đông Dương, tiêu biểu là cuộc tiến công
địch ở Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ; ở Trung Lào, uy
hiếp Xavannakhet và Xênô; ở Thượng Lào, uy hiếp Luông
Phabang và Mường Sài; ở Bắc Tây Nguyên, uy hiếp Plâyku,... đã làm đảo lộn kế hoạch của
Pháp-Mỹ, đẩy Pháp lún sâu vào thế bị động, phân tán lực lượng để đối phó với
ta, làm cho kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản. Trước nguy cơ bị
phá sản, Nava quyết định chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến
lược với ta, Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành “tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương” gồm: Hệ thống công sự,
boogke, hầm hào, tập trung 16.200
quân với đủ loại binh chủng, bố trí thành 03
phân khu, 49 cứ điểm, 2 sân bay,… nhằm “nghiền nát” chủ lực của ta. Pháp và Mỹ coi Điện Biên Phủ là “một pháo đài bất khả xâm phạm”, là trung
tâm của kế hoạch Nava, đẩy chiến tranh Đông Dương đến đỉnh điểm.
Trận quyết chiến chiến lược - “cuộc
đụng đầu Đông - Tây” chính thức bắt đầu.
Để tiêu diệt
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị đề ra kế hoạch: “Đánh nhanh, giải quyết nhanh và quyết
định: Nổ súng ngày 25/01/1954, kết thúc thắng lợi trong hai đêm ba
ngày”. Hồ
Chí Minh chỉ thị: “Trận này rất quan trọng,
phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh. Không chắc thắng không đánh”.
Sau khi khảo sát chiến trường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận thấy
tình hình có nhiều thay đổi, mọi sự chậm trễ có thể dẫn đến thất bại… Trong
thời điểm đó, “một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy”
đã được Đại tướng đưa ra: “Phải dừng
ngay giờ nổ súng và thay đổi phương án tác chiến”, chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang
“đánh chắc, tiến chắc”. Đây
là một quyết định sáng suốt, kịp thời, sát với tình hình thực tiễn, đưa
đến thắng lợi. Một kế hoạch tác chiến mới công phu, tỉ mỉ,
toàn diện được đề ra. Ta huy động một lực lượng lớn cho chiến dịch “bảo đảm hậu cần cho bộ đội chiến đấu liên tục
trong chiến dịch Điện Biên Phủ”.
Ngày 13/3/1954,
Đại tướng ra lệnh nổ súng tiến công mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến dịch
diễn ra trong 03 đợt: Đợt 1 từ
ngày 13-17/3/1954, ta tiến công tiêu diệt các căn cứ Him Lam và toàn bộ
phân khu Bắc; Đợt
2 từ ngày 30/3-26/4/1954, ta đồng loạt
tiến công phía Đông phân khu Trung tâm, chiếm phần lớn các căn cứ của địch,... Đợt 3 từ ngày 01-07/5/1954, ta tiến công các cứ
điểm còn lại khu Trung tâm và phân khu Nam, tối ngày 6/5/1954, khối bộc phá 900 kg nổ trên đồi A1,
làm hiệu lệnh Tổng công kích vào sào huyệt của kẻ thù, đến 17 giờ 30
ngày 7/5/1954, ta đánh vào sở chỉ huy địch, tướng De Castries cùng
toàn bộ quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng. Sau 56 ngày đêm chiến đấu anh
dũng, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị ta tiêu diệt, kế hoạch Nava hoàn toàn bị
phá sản, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay
chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, buộc
Pháp phải kí vào Hiệp định Giơnevơ ngày 21/7/1954, công nhận “độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”
của ta, kết thúc chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là đòn đánh táo bạo của quân và
dân ta, chọc vào đúng nơi mạnh nhất của địch và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Xe thồ,
trận địa hào chiến, thay đổi phương châm tác chiến, ý chí tinh thần,…
là những hiện tượng độc đáo có một không hai trong nghệ thuật quân
sự nhân loại. Thể hiện cho sức mạnh quật khởi, tinh thần đoàn kết,
ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất, gan dạ, sáng tạo, mưu chí,
nhạy bén… của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Chiến thắng đó là một
mốc son chói lọi bằng vàng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược, được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi
Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử nhân loại như một
chiến công hiển hách, đột phá vào thành trì nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân đế quốc, đánh dấu và khẳng định thắng lợi vĩ đại của tinh thần đoàn
kết, sức mạnh quật khởi, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Đánh giá chiến thắng này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là dấu mốc
bằng vàng. Đó là thắng lợi vĩ đại của Nhân dân ta… càng làm sáng ngời chân lý của
chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc
nhất định bị thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành
công”.
Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng là một sự kiện lịch
sử trọng đại, là chiến công vẻ vang của quân và dân ta trong kháng chiến chống thực dân
Pháp; là kết quả của sự nỗ lực, tinh thần chiến đấu bền bỉ, dũng cảm, ngoan cường của các lực lượng; sự hy
sinh to lớn về xương máu; sự phối hợp của các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại
giao,... sự ủng hộ, giúp đỡ tận tình, hiệu quả của nhân dân yêu chuộng hòa bình
trên thế giới,… thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo tài tình, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành chiến
tranh của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và tài thao lược của nhà quân
sự lỗi lạc - “vị tướng của Nhân dân”,
“vị tướng của hòa bình”,
“người anh cả của Quân đội
nhân dân Việt Nam” - Đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Chiến thắng đó đã chứng minh chân lý thời đại: “Một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế chậm phát triển,
quân đội còn non trẻ,... nhưng biết đoàn kết chặt chẽ, có đường lối lãnh đạo
đúng đắn, khoa học, sáng tạo của Đảng,... thì hoàn toàn có thể đánh thắng
mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng mạnh hơn gấp nhiều lần”.
Lê Văn Sơn