Hơn
ai hết, là nhà tổ chức thiên tài, Hồ Chí Minh sớm thấy vai trò quyết định của tổ
chức và luôn phát huy uy lực của các tổ chức cách mạng. Từ tháng 7/1924, trong
Luận cương về thanh niên thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Nhanh chóng hình
thành các tổ chức thanh niên cách mạng và xây dựng Đoàn TNCS ở các nước thuộc địa”.
Cụm từ “đoàn viên thanh niên cộng sản” được Người sử dụng sau đó vào tháng 2
năm 1925 trong báo cáo gửi cho Đoàn Chủ tịch Quốc tế cộng sản tại Moscow sau
khi Người tuyên truyền, giác ngộ và kết nạp vào tổ chức Đoàn Thanh niên yêu nước
Việt Nam tại Quảng Châu.
Được
sự chăm lo ân cần, trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, cũng như sự quan tâm đặc biệt
của Đảng Cộng Sản Việt Nam, từ năm 1925 đến năm 1931, tổ chức Đoàn đã phát triển
vượt bậc trong cả nước:
Năm
1925 đến 1927: 8 đồng chí.
Năm
1927 đến 1929: 25 đồng chí.
Năm
1929 đến 1931: 942 đồng chí (theo thống kê của Nguyễn Ái Quốc trong thư của Người
gửi Trung ương Đảng).
Đến
năm 1940, Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta luôn theo dõi và quan tâm lãnh đạo quá
trình phát triển của tổ chức Đoàn, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, thiếu sót,
tạo điều kiện cho Đoàn không ngừng lớn mạnh.
Năm
1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo
toàn Đảng, toàn dân chuẩn bị tiến thới cao trào đấu tranh giành giải phóng dân
tộc. Người đã trực tiếp sáng lập ra Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc.
Vào
tháng 8 năm 1945, ngoài vùng nông thôn rộng lớn, cơ sở Đoàn đã hiện diện ở các
trung tâm chính trị, kinh tế của đất nước như Hà Nội, Huế, Sài Gòn,… với hơn
30.000 đoàn viên.
Đến
năm 1956, trong huấn thị tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II, Bác Hồ dạy:
“Đoàn là cánh tay đắc lực của Đảng để thực hiện những chủ trương và chính sách
cách mạng”.
Đến
năm 1960, khái niệm này đã được Người phát triển rộng thêm trong huấn thị tại
buổi lễ trọng thể kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng: “Đoàn Thanh niên lao động
phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức, giáo dục thế hệ thanh
niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
Tại
buổi lễ kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Đoàn (26/3/1966) Bác lại một lần nữa khẳng
định: “Đoàn Thanh niên là cánh tay và đội hậu bị của Đảng, là người phụ trách
dìu dắt các cháu nhi đồng”.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tổ chức Đoàn và công tác
thanh niên
Từ
đó có thể thấy, xuyên suốt quá trình Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo Đoàn Thanh
niên, có thể thấy Người nhấn mạnh vai trò, chức năng của Đoàn Thanh niên là tổ
chức giáo dục thế hệ trẻ, là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt
Nam. Vai trò, chức năng này được thể hiện trong 5 nội dung cơ bản sau:
1. Giáo dục, bồi dưỡng thanh niên về lý tưởng
cách mạng. Cuộc sống luôn đặt ra cho mỗi con người, nhất là đặt ra cho lớp
trẻ nhiều câu hỏi phải được giải đáp như mục đích sống là gì? Lý tưởng đang phấn
đấu là gì? Về điểm này, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cần giáo dục cho thanh niên thấy
được “… chúng ta không một phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu
cho Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên
đất nước ta”.
2. Giáo dục, bồi dưỡng thanh niên về chí
khí cách mạng. Đoàn Thanh niên cần phải giúp thanh niên Việt Nam tôi luyện
ý chí, nghị lực, chí lớn, khí phách, khí tiết, khí dũng trong con người, phát
huy chí khí của truyền thống dựng nước và giữ nước. Chí khí càng cao, càng mạnh
thì mới có thể:
“Đào núi
và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
3. Giáo dục, bồi dưỡng thanh niên về đạo đức
cách mạng. Giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề nền tảng, cốt yếu. Hồ
Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đã chỉ rõ: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đạo đức cách mạng ở đây chính là: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư.
Xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xứng đáng là
trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam
4. Giáo dục, bồi dưỡng thanh niên nâng cao
trình độ chính trị, văn hóa, khoa học công nghệ. Trình độ chính trị là nhu
cầu tự thân của mọi công dân yêu nước, đặc biệt là đối với tuổi trẻ. Nâng cao
trình độ chính trị là cơ sở để nắm bắt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Trong khi đó, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học công nghệ là điều
kiện tiên quyết để phát huy được lý tưởng, chí khí, đạo đức cách mạng đã có. Nhằm
giúp thực hiện được điều này, Đoàn Thanh niên cần cổ vũ, truyền động lực, tinh
thần học tập cho thanh niên Việt Nam.
5. Giáo dục, bồi dưỡng thanh niên về tinh
hoa văn hóa dân tộc, nhân loại; nâng cao thể chất và nếp sống văn minh. Đoàn
Thanh niên cần phải quán triệt tưởng của Hồ Chí Minh khi Người nhận định: càng
thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin thì càng phải coi trọng những truyền thống tốt
đẹp của cha ông; dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Về nâng cao thể chất, thể lực, đây là nguyện vọng và cũng là lợi ích chính đáng
của tuổi trẻ. Các cơ sở Đoàn, Hội, Đội cần tích cực tìm tòi các hình thức hoạt
động thể dục thể thao thích hợp phù hợp cho từng điều kiện, đối tượng, góp phần
đạt được mục tiêu “… mỗi một người dân khỏe mạnh tức là góp phần làm cho cả nước
mạnh khỏe… việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công…”. Đồng
thời với đó, Đoàn Thanh niên cần tuyên truyền, vận động thanh niên thực hiện nếp
sống văn mình, muốn vậy, cần phải cổ vũ thanh niên chống lại “Tâm lý ham sung
sướng, tránh khó nhọc, chống lười biếng, chống xa xỉ, chống kiêu ngạo khoe
khoang, chống thói sinh hoạt ủy mị, vô kỷ luật”.
Có
thể thấy rằng, thực hiện chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa cho thanh
niên, là tổ chức giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam đã đặt ra cho Đoàn Thanh niên những
nhiệm vụ, trọng trách hết sức nặng nề, cao cả. Vì vậy, để có thể hoàn thành được
sự nghiệp này, đòi hỏi sự vào cuộc của toàn thể các cấp bộ Đoàn, tinh thần, ý
thức tự giác của mỗi đoàn viên, và đồng thời là sự chung tay, góp sức của toàn
xã hội.
Nguyễn
Hữu Hùng
– Đoàn viên Chi đoàn Sở Nội vụ, Đoàn khối
các cơ quan tỉnh Đồng Nai