Tác giả cho biết chưa có người phụ nữ nào được vinh dự nhận lấy sự tín nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân như bà Nguyễn Thị Định. Năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Năm 1974, bà được phong quân hàm cấp thiếu tướng. Năm 1982, bà được bầu Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ dân chủ quốc tế; năm 1986, Phó chủ tịch Hội đồng nhà nước… Nhưng đằng sau những vinh quang, huyền thoại Nguyễn Thị Định là sự hy sinh, mất mát và những giọt nước mắt mà bà đã lặng lẽ giấu kín trước đêm của cuộc cách mạng. Bà đã sống trọn vẹn với non sông đất nước, nhưng đời riêng, hạnh phúc làm vợ, làm mẹ của bà lại không trọn vẹn, khi phải chịu nhiều hy sinh, mất mát.
Khi chồng bà hy sinh ngoài Côn Đảo, bà muốn đi tu, muốn chết đi cho xong, nhưng lại nhớ đến lời ông căn dặn: “Dấn thân vào cách mạng là phải chịu tù đày cái chết”. Nghĩ đến bao đồng chí còn bị tù tội, đã hy sinh, chị cứng rắn hẳn lên… Năm 1944, phong trào Việt Minh lên mạnh, Nguyễn Thị Định bắt liên lạc với tổ chức. Bà gửi con cho mẹ và lao vào công tác. Trong Cách mạng tháng Tám, người góa phụ trẻ đã cầm cờ dẫn đầu hàng nghìn quần chúng tay dao, tay gậy, băng, biểu ngữ rầm rộ chiếm thị xã Bến Tre… Chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Genève ký kết, bà Nguyễn Thị Định quyết định ở lại miền Nam, chỉ mình con trai ra Bắc. Nhưng có ngờ đâu đó lại là cuộc chia ly vĩnh viễn giữa hai mẹ con.
Tiễn con đi rồi, bà tiếp tục cuộc đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Genève.
Ngày 2/9/1960, trong chuyến công tác, tranh thủ phút yên tĩnh hiếm hoi, bà viết cho con trai bức thư chan chứa tình thương của người mẹ. Bà không khỏi xốn xang khi 6 năm xa cách mà chỉ duy nhất một lần nhận được thư con. Bức ảnh của con trai gửi về đủ làm lòng người mẹ vui sướng, tự hào. Bà nghĩ đến một tương lai tốt đẹp cho con. Vừa gửi xong lá thư, trở về cơ quan tỉnh ủy thì bà nhận được bức điện “Cháu On con chị Ba, bị bệnh mất ngày 4/5/1960”. Bà bàng hoàng, sửng sốt, thấy trời đất quay cuồng. Bà cố không để mình ngất xỉu trước mặt các đồng chí, nhưng trái tim như có bàn tay bóp nghẹt.
Lần đầu nghe tin chồng hy sinh ngoài Côn Đảo, nỗi đau cũng ập đến như vậy. Nhưng nỗi đau lại nhân lên nhiều lần hơn, bởi On là tình yêu, là tất cả niềm hy vọng của bà. Tin buồn ấy nhanh chón lan ra Tỉnh, anh em cán bộ đều làm một điều gì đó để chia sẻ nỗi đau với bà. Chính tấm lòng của nhân dân đã động viên bà dần vượt qua nỗi đau đó. Máu đồng bào còn tiếp tục chảy, sứ mạng duy trì tiếp ngọn lửa đồng khởi còn nặng trên đôi vai bà. Người chỉ huy nén đau nước mắt, tiếp tục bước tiếp vào cuộc chiến đấu quyết liệt.
Hòa bình lập lại và sau khi đã hoàn thành mọi nhiệm vụ Nhà nước giao, bà mới có điều kiện đưa hài cốt con trai mình về quê hương. Theo lời kể của bà Trương Thị Mỹ Hoa, người có 7 năm liền làm việc bên bà Nguyễn Thị Định mà tác giả Trầm Hương dẫn trong sách, cho biết: “Tôi không thể quên được hình ảnh dì Ba trong một lần vào Nam. Hôm ấy, tôi tiễn dì Ba đi. Dì Ba dậy từ rất sớm. Dì Ba bước ra xe, trên vai, một bên là gói hài cốt đứa con trai yêu, một bên là gói hài cốt của con trai của đồng chí mình. Dì Ba cho bốc mộ hai đưa con miền Nam đã chết ở miền Bắc, đưa các anh trở về quê hương xứ sở khi nước nhà đã thống nhất. Hành lý chị Ba sau khi từ chức vụ chỉ có vậy. Dì ba lầm lũi bước ra xe trong thời tiết buốt giá. Tôi không hiểu lòng người mẹ đau đớn lạnh lẽo đến mức nào. Nước mắt tôi cứ trào ra…”.
Nguồn từ bài viết “Đời riêng nữ tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam” - tác giả Minh Châu.