Năm
2025, đánh dấu kỷ niệm 71 năm Hiệp định Giơnevơ về về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết (20/7/1954 - 20/7/2025). Đây là một mốc
son quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam,
đồng thời, còn là thành quả của “trận đánh” lớn đầu tiên trên vũ đài quốc tế của
nền ngoại giao cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Thời gian càng lùi xa,
càng cho thấy ý nghĩa và những bài học từ Hội nghị lịch sử này vẫn vẹn nguyên
giá trị.
.jpg)
Hội
nghị Giơnevơ (Thụy Sỹ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương (Ảnh tư liệu)
Bản
lĩnh vững vàng bên bàn đàm phán
Đoàn
Việt Nam bước vào hội nghị Giơnevơ với tư thế của một dân tộc vừa giành chiến
thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Ta có sự đoàn kết,
giúp đỡ của đoàn Liên Xô, Trung Quốc, nhưng phải đối mặt với sáu đối thủ (Mỹ,
Anh, Pháp, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia thân Pháp).
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Stalin mới mất, nội bộ Liên Xô chưa ổn định,
muốn hòa hoãn với phương Tây. Trung Quốc lúc đó chưa phải là Ủy viên thường trực
Hội đồng Bảo an.
Trải
qua 75 ngày đêm đàm phán với 31 phiên họp, diễn biến hội nghị trải qua giai đoạn. Giai đoạn 1 (08/5/1954 -
19/6/1954), ngoài việc trao đổi chương trình nghị sự, các Đoàn trình bày lập
trường của mình về giải pháp cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Đoàn Pháp do
Ngoại trưởng Bidault làm trưởng đoàn, phát biểu chỉ giải quyết vấn đề quân sự,
không đề cập vấn đề chính trị và tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt
Nam. Phát biểu này được Mỹ ủng hộ. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn yêu cầu phải có sự
tham dự của đại diện Chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia. Ngày 10/5/1954,
Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu, đưa ra lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
với nội dung chủ yếu là: yêu cầu đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương
đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề
Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của mỗi nước. Trung Quốc, Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam. Trưởng
đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai đưa ra hai điều kiện để lập lại hòa bình ở Đông
Dương: Pháp chấm dứt chiến tranh; Mỹ chấm dứt can thiệp vào Đông Dương. Trưởng
đoàn Liên Xô - Bộ trưởng ngoại giao Molotov đề nghị lập Ủy ban giám sát quốc tế
gồm các nước trung lập. Tại phiên họp lần thứ 4, Trưởng đoàn Liên Xô đề nghị thảo
luận về phương án của Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau
4 phiên họp rộng, Chủ tịch Hội nghị - Ngoại trưởng Anh Eden yêu cầu họp hẹp.
Trưởng đoàn Liên Xô đề nghị vấn đề quân sự, chính trị và vấn đề ba nước sẽ bàn
song song. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô, Trung Quốc đồng ý. Anh và Pháp
tán thành, Mỹ đành phải chấp nhận. Ngày 25/5/1954, trong phiên họp hẹp, Trưởng
đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng đưa ra 2 nguyên tắc cho vấn đề đình chiến: Ngừng bắn
hoàn toàn trên toàn cõi Đông Dương và điều chỉnh vùng trong mỗi nước, trong từng
chiến trường trên cơ sở đất đổi đất để mỗi bên có những vùng hoàn chỉnh tương đối
rộng lớn thuận lợi cho quản lý hành chính và hoạt động kinh tế. Đại diện các bộ
tư lệnh có liên quan nghiên cứu tại chỗ những biện pháp ngừng bắn để chuyển tới
Hội nghị xem xét và thông qua.
Ngày
27/5/1954, đoàn Pháp đồng ý lấy đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm cơ sở
thảo luận, đề nghị đại diện của hai bên gặp nhau ở Giơnevơ để bàn việc chia
ranh giới khu vực tập trung quân ở Đông Dương. Cùng ngày, đoàn Trung Quốc đưa
ra 6 điểm về vấn đề quân sự như: ngừng bắn hoàn toàn và cùng một lúc ở ba nước
Đông Dương; thành lập Ủy ban kiểm soát quốc tế gồm các nước trung lập nhưng
chưa đề cập tới giải pháp về mặt chính trị. Ngày 29/5/1954, sau 4 phiên họp
toàn thể và 8 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hội nghị Giơnevơ ra quyết định: Ngừng
bắn toàn diện và đồng thời; Đại diện hai bên gặp nhau ở Giơnevơ để bàn về bố
trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến, bắt đầu bằng việc phân vùng tập kết
quân đội ở Việt Nam.
Nhìn
chung, do lập trường giữa các đoàn có một khoảng cách khá lớn, chủ yếu là do lập
trường hiếu chiến của các nước Phương Tây tham gia Hội nghị, nên các cuộc đàm
phán tiến triển rất chậm. Ngày 12/6/1954, nội các Thủ tướng Laniel do phái chủ
chiến chi phối bị Quốc hội Pháp đánh đổ. Ngày 19/6/1954, Mendès France lên cầm
quyền, hứa với Quốc hội Pháp trong vòng một tháng sẽ giải quyết xong vấn đề lập
lại hòa bình ở Đông Dương. Đây là sự kiện quan trọng góp phần phá vỡ bế tắc,
thúc đẩy đàm phán tiến triển.
Giai
đoạn 2 của hội nghị (từ 20/6/1954 - 10/7/1954), trong giai đoạn này, hầu hết
các Trưởng đoàn về nước báo cáo, chỉ có Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở
lại. Các Quyền trưởng đoàn tổ chức các cuộc họp hẹp và họp Tiểu ban quân sự Việt
- Pháp bàn vấn đề tập kết, chuyển quân, thả tù binh và việc đi lại giữa hai miền.
Vấn đề phân định vĩ tuyến tại Việt Nam trở thành nội dung đàm phán chính với
các hoạt động gặp gỡ, trao đổi quan điểm của các bên. Nhìn chung, các cuộc họp
hẹp ở Giơnevơ trong giai đoạn này không có tiến triển gì đáng kể.
Giai
đoạn 3 (từ ngày 11-21/7/1954), trong 10 ngày cuối của Hội nghị đã diễn ra nhiều
cuộc gặp gỡ, trao đổi tay đôi, tay ba hoặc nhiều bên giữa các Trưởng đoàn. Các
phiên họp chủ yếu đàm phán, thỏa thuận về phân chia vĩ tuyến làm ranh giới tạm
thời; thông qua các văn kiện, kể cả các điều khoản thi hành Hiệp định. Cuối
cùng là phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị. Nội dung đàm phán về phân chia vĩ
tuyến rất căng thẳng. Pháp khăng khăng vĩ tuyến 18, Việt Nam kiên quyết vĩ tuyến
16. Phải đến phiên họp chiều tối ngày 20/7/1954, các bên mới đi đến thỏa thuận
lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Thời hạn 2 năm tổng tuyển cử cũng như các hiệp
định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào và Campuchia và các vấn đề khác đều là
sự giằng co giữa các bên.
Ngày
21/7/1954, Hội nghị Giơnevơ về hòa bình ở Việt Nam, Lào, Campuchia kết thúc.
Các văn bản được ký kết tại Hội nghị, gồm: Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam, Lào, Campuchia; Một bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị; Hai bản tuyên bố
riêng của đoàn Mỹ và đoàn Pháp ngày 21/7/1954; các công hàm trao đổi giữa Việt
Nam và Pháp.

Đại
biểu các nước đến dự hội nghị Giơnevơ (Thụy Sỹ).
Ý nghĩa lịch
sử và những bài học vẹn nguyên giá trị
Hiệp
định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng với Hiệp định Sơ bộ ngày
6/3/1946 và Hiệp định Paris năm 1973 đã trở thành 3 văn kiện ngoại giao quan trọng
nhất trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc
ta. Hiệp định Giơnevơ đánh dấu sự kết thúc một chặng đường trong quá trình đấu
tranh lâu dài và gian khổ để đi tới độc lập tự do của dân tộc. Là văn bản pháp
lý quốc tế quan trọng, lần đầu tiên các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được
các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương. Cùng với chiến thắng Điện Biên
Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của
Nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, giải phóng miền
Bắc nước ta, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương lớn, vững mạnh
cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.
Hiệp
định Giơnevơ đã thể hiện bản lĩnh của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam. Lần đầu
tiên tham gia vào một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình thế giới diễn
biến phức tạp, các nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và lợi ích riêng
nhưng đoàn đàm phán của ta đã phát huy chiến thắng trên chiến trường, phát huy
sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách
lược để giành được những kết quả quan trọng trên bàn Hội nghị.

Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ VNDCCH và Bộ Tổng tư lệnh
QĐNDVN ký Hiệp định đình chiến ở Đông Dương, 7/1954.
71
năm trôi qua, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi nhưng Hội nghị
Giơnevơ vẫn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau. Đó là: Trong tình hình quốc tế hết
sức phức tạp, chịu sự chi phối của các nước lớn, cần nêu cao tinh thần độc lập,
tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; kiên định về
nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; biết
giành thắng lợi từng bước trong cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ vì độc lập, tự
do của Tổ quốc. Tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước
là nhân tố bên trong có ý nghĩa quyết định, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối
ngoại để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa
bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng
tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý cũng như Nhân dân thế giới trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy vai trò của công tác đối ngoại,
tăng cường đối thoại, sử dụng biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp,
xung đột trong quan hệ với các nước, bảo đảm phù hợp với luật pháp quốc tế; ra
sức giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định vì lợi ích của Nhân dân Việt Nam và
Nhân dân thế giới.
Hiện
nay, tình hình thế giới và khu vực cũng như vị thế của Việt Nam đã nhiều thay đổi
nhưng những bài học lớn từ Hội nghị Giơ ne vơ năm 1954 vẫn còn nguyên giá trị cả
lý luận và thực tiễn. Việc vận dụng, phát triển các bài học từ Hội nghị Giơ ne
vơ, xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại theo tinh thần Đại hội
XIII của Đảng, là cách kỷ niệm thiết thực nhất, để mốc son có ý
nghĩa lịch sử và các bài học vô giá từ Hiệp định Geneva sẽ luôn trường tồn,
đồng hành, tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam,
đưa đất nước hướng tới mục tiêu, khát vọng phồn vinh, hạnh phúc.
Việt
Trinh (tổng hợp)