Trong
di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những luận điểm cơ bản về xây dựng
Đảng nói chung và xây dựng chi bộ đảng nói riêng là một nội dung rất quan trọng,
Người đặc biệt chú trọng
xây dựng chi bộ, đội ngũ đảng viên và cán bộ chủ chốt của chi bộ; chú trọng
công tác lãnh đạo và công tác tổ chức của mỗi chi bộ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng tổ chức cơ sở đảng là ánh sáng soi đường cho công tác xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng, mỗi thời kỳ lịch sử và đã được
Đảng ta kiên định quán triệt, vận dụng trong công tác xây dựng Đảng, nhờ đó, đã
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ đề ra.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ
tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến
bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì công việc không trôi chảy”
cho nên phải quyết tâm xây dựng chi bộ, phải làm cho chi bộ trở thành “Bốn
tốt”: (1) Đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; (2) chấp hành tốt đường lối, chính sách của
Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; (3) một lòng một dạ phục vụ
nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân;
(4) đối với Đảng thì củng cố tốt và phát triển tốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của chi bộ đối với công tác xây dựng Đảng
và trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, mà Người còn đi sâu phân tích, đưa ra những
luận điểm mới về nhiệm vụ của chi bộ. Đối với chi bộ cơ quan, Người chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể là “Làm sao cho toàn thể
nhân viên đều cố gắng thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng, của Chính phủ, hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân; làm sao cho mọi người thực hành cần, kiệm,
liêm, chính; làm sao để tẩy trừ những bệnh quan liêu, hình thức, tham ô, lãng
phí, a dua, dối trá, trái với luật lệ của Chính phủ, trái kỷ luật lao động…”. Đồng thời, Người
cũng luôn nhắc nhở phải phê bình nghiêm khắc những chi bộ kém, không gương mẫu,
thiếu đoàn kết, xa rời quần chúng, cán bộ lãnh đạo quan liêu mệnh lệnh. Do đó,
phải thường xuyên chỉnh đốn chi bộ, không để những phần tử xấu lợi dụng phá
hoại nội bộ.
Tổng
kết quá trình Đổi mới ở nước ta,
tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành
công cuộc đổi mới … đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên những tác động tiêu cực từ mặt
trái của kinh tế thị trường càng làm cho nhận định về bốn nguy cơ
mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa 7 năm 1994 nêu ra đến nay vẫn còn nguyên giá trị,
thậm chí có mặt trở nên nghiêm trọng, như là tình trạng quan liêu, tham nhũng,
hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một số cán bộ có chức, có quyền.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt
lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
Kế thừa các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và căn cứ
tình hình thực tiễn thời kỳ mới, nhằm tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, ngày 16/6/2022, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số
21-NQ/TW về “Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. Nghị quyết xác định 04 nhóm nhiệm vụ,
giải pháp, bao gồm: (1) Củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; (2) Nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên; (3) Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (4)
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân tham gia xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên. Trung ương Đảng đã chỉ rõ trong thời gian tới phải “triển khai thực hiện
hiệu quả mô hình "chi bộ bốn tốt", "đảng bộ cơ sở bốn tốt"
(Hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; chất lượng sinh hoạt tốt; đoàn kết, kỷ
luật tốt; cán bộ, đảng viên tốt). Đây chính là yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho
tổ chức đảng các cấp và nhất là ở cấp cơ sở.
Thực hiện Kế hoạch số
216-KH/TU ngày 30/12/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết
số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về “tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”; Hướng dẫn
số 13-HD/BTCTU ngày 28/4/2023 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy hướng dẫn thực hiện mô
hình “Chi bộ bốn tốt”, “Đảng bộ cơ sở bốn tốt”, Ban Thường vụ Đảng ủy khối
đã ban hành Kế hoạch số 72-KH/ĐUK ngày 14/3/2023 triển khai thực hiện Kế hoạch số 216-KH/TU của Tỉnh ủy và ban
bành Hướng dẫn số 05-HD/ĐUK ngày 25/9/2023 về thực hiện mô hình “Chi bộ bốn
tốt”, “Đảng bộ cơ sở bốn tốt” để triển khai trong toàn Đảng bộ khối. Ban Thường
vụ Đảng ủy khối đã cụ thể hóa 04 nội dung
tiêu chí bốn tốt bằng 20 điều kiện đánh giá để thống nhất triển khai,
thực hiện trong toàn Đảng bộ khối. Trong
đó có các tiêu chí liên quan đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
như:
- “Lãnh đạo thực hiện
tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực, lãng phí”.
- “Về chính trị, tư tưởng: 100% cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối đổi mới của Đảng; chấp hành, tuyên truyền, vận động gia đình
và nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước”.
- “Về phẩm chất đạo
đức, lối sống:
nêu gương tốt về đạo đức, lối sống, phòng,
chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nói đi đôi với
làm; phát huy ý chí, khát vọng vươn lên đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm”…
Đa số
các điều kiện đánh giá từ nhiều góc độ đều có liên quan đến công tác bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng. Các tiêu chí, nội dung đánh giá trên đã cụ thể hoá nhiệm
vụ của tổ chức cơ sở Đảng và nhiệm vụ đảng viên theo Điều lệ Đảng.
Để mô hình “Chi bộ bốn tốt” phát huy hiệu quả, bản thân đề xuất triển khai mô hình phải
gắn với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, lấy việc phát huy trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên là điều kiện tiên quyết, đồng thời gắn một số giải
pháp như sau:
Một là, rà soát, xây dựng kế hoạch và phân công cấp uỷ
viên, đảng viên trong chi bộ thực hiện Chi bộ bốn tốt và công tác bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
Việc thực hiện mô hình chi bộ bốn tốt là việc làm
thường xuyên, mang tính lâu dài và trước hết các chi bộ cần xây dựng kế hoạch cụ thể hoá, thực
hiện phân công nhiệm vụ cấp uỷ viên phụ trách những nội dung theo mảng công tác
trên cơ sở quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ cấp uỷ; phân công đảng viên
thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến nội dung chi bộ bốn tốt, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản
bác các quan điểm sai trái.
Cần có những kế hoạch, chương
trình cụ thể hoá (định lượng) các tiêu chí để dễ thực hiện và dễ đánh giá kết
quả. Có thể lựa chọn, đưa vào nghị quyết chi bộ hàng năm cụ thể hoá ít nhất 04 tiêu
chí đánh giá mô hình chi bộ bốn tốt để tập trung thực hiện làm nổi bật chủ đề
năm hoặc gắn với các nhiệm vụ đột phá thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng các cấp.
Hai là, xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ
Đảng viên là thành viên của chi bộ, sự vững mạnh của đội
ngũ đảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến sự trong sạch, vững mạnh của chi bộ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chi bộ tốt là
do các đảng viên đều tốt” và
“muốn có Đảng bộ tốt, chi bộ tốt, phải có
đảng viên tốt”.
Xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh là nội dung trọng tâm của công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chi bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên ở chi bộ cần
chú trọng cả số lượng và chất lượng, trong đó lấy chất lượng làm chính. Tiếp
tục thực hiện quan điểm của Đảng xác định từ Đại hội XI: “Đổi mới, tăng
cường công tác phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu
của điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng, chính trị,
trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu
giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo
của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra
khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên”.
Để nâng cao chất lượng đảng viên, hàng năm chi bộ có các hoạt động cụ thể về tổ chức học tập chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cập nhật đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
phù hợp với thù cơ quan đơn vị; kịp thời
phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và phát huy ý chí, khát vọng vươn lên đổi mới,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải bám sát nhiệm vụ được giao,
không ngừng học tập nâng cao trình độ, phát huy tính sáng tạo, đổi mới phương
thức làm việc, nói đi đôi với làm, thực hiện theo đúng quy chế làm
việc của cấp uỷ, chi bộ, cơ quan gắn với xây dựng đoàn kết nội bộ và đặc biệt là vận dụng, ứng dụng những mô hình mới của cải cách hành
chính, chuyển đổi số để đảm bảo khối lượng, tiến độ, chất lượng yêu cầu công
việc đề ra.
Tiếp tục thường xuyên rà soát quy hoạch, bổ sung quy
hoạch cán bộ, có ý kiến kịp thời với lãnh đạo cơ quan về
kiện toàn đội ngũ cán bộ; chú trọng hơn nữa công tác đào đạo, bồi dưỡng cán bộ
về chuyên môn, lý luận chính trị, nghiệp vụ và nhất là kỹ năng lãnh đạo, quản
lý cho cán bộ, đảng viên và thực hiện công tác điều động, luân chuyển cán bộ tạo môi trường cho cán bộ rèn luyện, phấn đấu
và trưởng thành.
Trong thời gian tới, các chi bộ cần quan
tâm lãnh đạo, nâng cao hiệu quả công tác dự báo, đề ra các giải pháp xây dựng chi bộ với cơ cấu độ tuổi, cơ cấu nữ hợp lý, có sự kế thừa để đảm bảo thực
hiện các nhiệm vụ được giao.
Ba là, triệt để thực hành dân chủ, thực hiện tốt tự phê
bình và phê bình để xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Để làm cho Đảng mạnh, thì
phải mở rộng dân chủ”, dân chủ trong chuẩn bị nghị quyết, ra nghị quyết và
thực hiện nghị quyết; phát huy tự phê bình và phê bình, bởi vì: “Tự phê bình
và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng
thêm mạnh. Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến bộ
không ngừng”.
Theo Người: “Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết
điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của
mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người
học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm”.
Thực hành tốt tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ sẽ không ngừng xây
dựng, củng cố niềm tin, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tự phê bình
và phê bình trong sinh hoạt chi bộ cần tuân thủ và thực hiện tốt các nguyên
tắc: trên cơ sở Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tôn trọng và bảo vệ lợi ích
của Đảng, tiến hành có tổ chức và trong tổ chức, chấp hành đúng các nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt Đảng; tránh lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, gây rối
nội bộ.
Để thực hiện giải pháp này, chi bộ luôn bám sát chức
năng, tình hình, nhiệm vụ của Chi bộ để thực hiện các tiêu chuẩn chi bộ trong
sạch, vững mạnh; thực hiện phương pháp, lề lối làm việc của cấp ủy, chi bộ thật sự khoa học, dân chủ sát với
thực tiễn, gắn việc ứng dụng công nghệ thông tin trong sinh hoạt; phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy và vai trò của các tổ chức
chính trị xã hội tại cơ quan.
Bốn là, giữ vững chế độ và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
Sinh hoạt chi bộ có vị trí quan trọng trong việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ. Sinh hoạt chi bộ được duy trì
đều đặn, thường xuyên có chất lượng sẽ làm cho đường lối, chính sách của Đảng,
chỉ thị, nghị quyết của cấp trên được quán triệt, thực hiện nghiêm túc; trí tuệ
và trách nhiệm của đảng viên được nâng cao, kỷ luật của Đảng được tăng cường;
nội bộ chi bộ đoàn kết, thống nhất cao.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hễ
nơi nào, lúc nào mà sinh hoạt chi bộ bị buông lỏng, rời rạc hoặc không có nội
dung chính trị, tư tưởng cụ thể, thiết thực thì nơi đó, lúc đó nguy cơ đi chệch
đường lối, chính sách của Đảng, hạ thấp vai trò tiền phong gương mẫu của đảng
viên. Làm cho kỷ luật của Đảng bị lỏng lẻo, các biểu hiện tiêu cực nảy sinh và
phát triển, sự gắn bó giữa Đảng và quần chúng bị suy yếu”.
Muốn nâng cao chất lượng các buổi sinh hoạt chi bộ, cần
đặc biệt coi trọng ba tính chất sinh hoạt Đảng trong các chi bộ: tính lãnh
đạo, tính chiến đấu và tính giáo dục. Ba tính chất trên có mối quan hệ mật
thiết và có sự tác động qua lại, biện chứng thống nhất; cho nên, phải thực hiện
đồng bộ mới có kết quả. Trách nhiệm đó thuộc về cấp ủy và mỗi đảng viên.
Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cần thường xuyên cải
tiến và đổi mới nội dung sinh hoạt thường kỳ, sinh hoạt chuyên đề; tiếp tục phát huy tổ chức sinh hoạt
chuyên đề gắn với nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng viên,
của cơ quan, đơn vị. Đảng ta thống nhất một quan điểm là
lấy nhiệm vụ xây dựng Đảng làm then chốt, vì vậy, chi bộ cần phải ra sức tìm
tòi, đổi mới nội dung sinh hoạt Đảng, sinh hoạt Đảng gắn với sử dụng hiệu quả
sổ tay đảng viên điện tử; cần thực hiện tốt công tác thi đua – khen thưởng trong
chi bộ để tạo động lực thúc đẩy cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập lý luận,
triển khai thực hiện nhiệm vụ được phân công và góp phần thực hiện công tác bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Năm là, làm tốt công tác kiểm tra, giám
sát trong xây dựng chi bộ, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện tham nhũng,
tiêu cực
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, khi đã có chính sách đúng,
thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công
việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra; muốn hoàn thành tốt mọi việc,
thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính
sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm
tra. Thông qua kiểm tra, giám sát, sẽ quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên;
đồng thời ngăn chặn các biểu hiện của sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối
sống, tham nhũng, lãng phí, những phần tử cơ hội, gây mất đoàn kết nội bộ, vi
phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng.
Mọi đảng viên phải được đặt trong phạm vi kiểm tra, giám
sát của chi bộ. kiểm tra không phải là “vạch lá tìm sâu”, làm giảm thành tích.
Kiểm tra phải có hệ thống, kịp thời, khách quan, công minh, chính xác, sâu sát.
Chỉ có như vậy, công tác xây dựng chi bộ mới có hiệu quả, cấp ủy, chi bộ mới
bảo đảm được vai trò lãnh đạo của mình. Vì vậy, trong thời gian tới, ở Chi bộ
tiếp tục duy trì thực hiện giám sát 01 đảng viên/ quý. Sau giám sát cần có biện
pháp giao cho đảng viên, tổ đảng tiếp tục theo dõi và giúp đỡ đảng viên được
giám sát khắc phục những hạn chế.
Đồng thời, định kỳ hàng quý Chi uỷ
thực hiện rà soát, đánh giá các tiêu chí thực hiện mô hình chi bộ bốn tốt để
kịp thời điều chỉnh, bổ sung và lãnh đạo đảng viên Chi bộ thực hiện đảm bảo về
nội dung, tiến độ các tiêu chí mô hình chi bộ bốn tốt.
Tóm
lại, từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt” được Trung ương Đảng quyết tâm
triển khai nhằm tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Để thực hiện mô hình này
trong trong chi bộ, cần phát huy vai trò của cấp uỷ nhưng vẫn quan trong nhất
là vai trò của mỗi đảng viên hưởng ứng và quyết tâm thực hiện, song song đó phải
gắn việc nêu gương, gắn việc triển khai công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
để kết quả thực hiện mô hình đạt hiệu quả cao nhất./.
Vy
Hoài Vũ
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr. 2605.