Thế kỷ XX chứng kiến sự ra
đời của nhiều nền độc lập với thể chế dân chủ cộng hòa, nhưng không có nền dân
chủ cộng hòa nào suốt quá trình phát triển của mình phải đấu tranh để giữ vững
độc lập tự do như ở Việt Nam.
Lời thề độc lập ngày
2/9/1945
Cuộc Tổng khởi nghĩa trên
phạm vi toàn quốc (tháng 8/1945) đã đưa đến kết quả to lớn: Toàn bộ chính quyền
đã về tay nhân dân Việt Nam. Ngày 28/8/1945, khi những địa phương cuối cùng ở
đất liền và hải đảo tổng khởi nghĩa thắng lợi thì tại Hà Nội, Ủy ban Dân tộc
giải phóng Việt Nam (do Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ra) nhóm họp để cải
tổ thành Chính phủ Cách mạng lâm thời và bàn việc chuẩn bị ra mắt Chính phủ
trước quốc dân đồng bào.
Chiều ngày 2/9/1945, tại
Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn người dự Lễ mít tinh mừng độc
lập, Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà
trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam mới.
Tuyên ngôn Độc lập mở
đầu bằng một chân lý phổ biến: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Tuyên ngôn Độc
lập khẳng định “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật
chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta
đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt
Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế
độ dân chủ cộng hoà".
Tuyên ngôn Độc
lập trịnh trọng tuyên bố:“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”.
Bản Tuyên ngôn kết thúc
bằng lời thề: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
“Độc lập hay là chết” !
Lúc ấy ở Sài Gòn cả biển
người kéo về đại lộ Cộng hòa (nay là đường Lê Duẩn) lắng nghe lời Hồ Chủ tịch
truyền từ Thủ đô Hà Nội. Tại đây, Bí thư Xứ ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Hành chánh
lâm thời Nam Bộ Trần Văn Giàu phát biểu với nhân dân và nhắc nhở: “Mừng
thắng lợi, nhưng đồng bào chớ say sưa” vì kẻ thù đang “toan tính
một cuộc âm mưu gác lại ách nô lệ trên 25 triệu đồng bào”, vì vậy cần nêu
cao ý chí “cương quyết chống mọi sự xâm lăng”, “hãy sẵn
sàng chiến đấu”.
Cuộc mít tinh mừng độc lập
ở Sài Gòn chuyển ngay thành cuộc biểu dương lực lượng với các biểu ngữ giăng
ngang đường viết bằng các thứ chữ Anh, Nga, Pháp, Việt “Độc lập hay là
chết”.
Hơn 20 ngày sau đó, đêm 22
rạng ngày 23/9/1945, tiếng súng chống xâm lược lại nổ ran nhiều nơi trong thành
phố Sài Gòn.
Tại hội nghị Cây Mai (nhà
số 629 đường Cây Mai, nay là đường Nguyễn Trãi, Quận 5) sáng sớm ngày
23/9/1945, một hiệu triệu của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do ông Trần Văn Giàu
vừa soạn trong đêm được thông qua thể hiện bằng hành động giữ lời thề độc lập:
“Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta một lần nữa. Ngày 2 tháng 9, đồng bào đã thề
quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ độc lập của Tổ quốc: “Độc lập
hay là chết” !... Ủy ban Kháng chiến kêu gọi: Tất cả đồng bào, già, trẻ, trai,
gái, hãy cầm vũ khí xông lên đánh đuổi quân xâm lược”.
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh” !
Buổi bình minh của nền dân
chủ cộng hòa Việt Nam có bao nhiêu khó khăn và thử thách đòi hỏi phải hóa giải
nguy cơ chiến tranh, tranh thủ từng giây phút hòa bình: Hậu quả mà chế độ thuộc
địa và phong kiến để lại, nạn thù trong giặc ngoài đe dọa vận mệnh nền độc lập;
Đảng cầm quyền phải tạm thời rút vào bí mật; Chính phủ đi từ nhượng bộ này đến
nhượng bộ khác; Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp điện đàm từng câu chữ với đối
phương để cứu vãn tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”…
Nhưng “càng nhân nhượng”
thì kẻ thù “càng lấn tới”: Sáng 18/12/1946, đối phương đòi được tự do đi lại
trên đường phố Hà Nội, chiều ngày 18/12/1946, chúng đòi đảm nhiệm việc trị an ở
Thủ đô, sáng 19/12/1946, chúng đòi tước vũ khí lực lượng tự vệ… Chúng đang
“quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”.
Khả năng hòa hoãn đã hết.
Hồ Chủ tịch chủ tọa cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại Vạn Phúc (Hà
Đông) ngày 18/12/1946 quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.
Đêm 19/12/1946, pháo đài
Láng bắn 3 loạt đạn vào các vị trí quân Pháp trong nội thành, mở đầu hiệu lệnh
kháng chiến toàn quốc. Thủ đô và cả nước kiên quyết giữ vững lời thề độc lập
theo tinh thần “Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi nhà là một pháo đài, mỗi
phố là một chiến tuyến”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” !
“Thống nhất nước nhà là con
đường sống của nhân dân ta”
“Chín năm làm một Điện
Biên/Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. Hiệp định Geneva được ký kết năm
1954, các nước công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt
Nam. Nhưng liền đó chủ nghĩa thực dân mới ập đến với âm mưu chia cắt lâu dài đất
nước Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
thư gửi đồng bào cả nước ngày 6/7/1956 đã chỉ rõ: “Thống nhất nước nhà là
con đường sống của nhân dân ta”. Hơn 20 năm (1954-1975) quân dân Việt Nam
trên cả hai miền Nam-Bắc “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải” đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới.
Nhân dân ta phải qua 30 năm
gian khổ, hy sinh vô bờ để đi đến Ngày vui đại thắng 30/4/1975 và làm nên
“chiến công chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người”, một sự kiện “có tầm quan trọng quốc
tế và có tính thời đại sâu sắc”.
“Vì một lẽ sống cao đẹp cho
mọi người: Độc lập, tự do”
Từ trong những ngày khói
lửa của cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngày 17/7/1966
tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cao chân lý “Không có gì quý hơn
độc lập tự do” và nói đến “ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại
đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Nhưng khi non sông vừa liền một giải, mang trên mình còn lắm vết thương, tiếng
súng giữ biên cương, hải đảo lại nổ giòn.
Ngay trong đêm 17/2/1979,
nghe tin “tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”, nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng
tác bài hành khúc mới kết thúc bằng lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì
một lẽ sống cao đẹp cho mọi người: Độc lập - tự do". Từ biên giới Tây
Nam đến biên giới phía Bắc, từ đất liền đến quần đảo Trường Sa, cả dân tộc đứng
lên chiến đấu “giữ vững quyền tự do và độc lập”.
Giờ đây, đất nước có thêm
nhiều sức mạnh để củng cố và phát triển, Việt Nam không chỉ có tên trên bản đồ
mà còn có vị thế và uy tín lớn trên trường quốc tế; không chỉ có chủ quyền
thống nhất từ đất liền đến biển đảo khơi xa mà còn có quan hệ ngoại giao và
kinh tế với hơn 180 nước khắp các châu lục. Dân tộc Việt Nam không chỉ tái sinh
và làm “mát dạ ông cha nghìn thuở trước” mà còn đủ tầm, đủ lực hội nhập bàn
chuyện bốn biển năm châu hiện tại và mai sau.
Vẫn còn nhiều nguy cơ và
thách thức nhưng Lời thề Độc lập từ năm 1945 vẫn còn đây: “Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy”. Ta tin để vững bước vào tương lai!
Nguồn:
chinhphu.vn