Trong những ngày tháng
Tám - mùa thu tháng Tám lịch sử này, nhân dân cả nước ta đang tưng bừng kỷ niệm
lần thứ 71 của một sự kiện vĩ đại: Cách mạng Tháng 8/1945 thắng lợi - sự ra đời
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - Nhà nước của dân, do dân, vì dân - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa!
“Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập”, tranh bột màu
của họa sỹ Nguyễn Dương. Ảnh: dangcongsan.vn
Ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện này không những
đã vượt qua khuôn khổ của một cuộc tổng khởi nghĩa, lật đổ chế độ thực dân, phong
kiến, thiết lập một nhà nước độc lập mà còn đặt nền tảng cho một chế độ xã hội
mới đối với dân tộc ta, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại được mở
ra từ thắng lợi của cách mạng tháng Mười - 1917, vừa đáp ứng khát vọng ngàn đời
của dân tộc: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ, hiện thực hóa mục tiêu giải
phóng giai cấp - xóa áp bức, bóc lột, giải phóng xã hội, xóa bất công, giải
phóng con người, để mọi người dân Việt Nam được sống trong tự do, ấm no, hạnh
phúc. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi của đường lối giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Càng hiểu sâu sắc tầm
vóc của cách mạng tháng Tám, chúng ta càng biết ơn vô hạn với công lao của Bác
Hồ vĩ đại, người đã có công tìm ra con đường duy nhất đúng để giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người!
Chúng ta cùng nhau ôn lại quá trình tìm con
đường cứu nước mới của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc:
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 trong gia
đình nhà nho nghèo yêu nước quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An,
khi còn nhỏ tuổi mang tên Nguyễn Sinh Cung, đến tuổi đi học lấy tên là Nguyễn
Tất Thành. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, đau xót trước tình cảnh lầm
than của đồng bào nên Người đã sớm hun đúc ý chí đánh đuổi thực dân Pháp, cứu
dân, cứu nước.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành xuất dương đi tìm
con đường cứu nước mới trong tình cảnh nước ta đang chìm trong cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước.
Năm 1858, ngay khi thực dân Pháp nổ súng xâm
lược nước ta, với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của
triều đình phong kiến, nhân dân cả nước ta đã liên tiếp vùng lên chống thực dân
Pháp xâm lược, đúng như lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực trước khi
bị quân Pháp xử tử: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh
Tây!”.
Phong trào Cần Vương thất bại lại liên tiếp
bùng lên hàng trăm cuộc khởi nghĩa của nông dân, mà tiêu biểu nhất là các cuộc
khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… Các phong trào yêu nước của nông
dân và sĩ phu yêu nước đều bị thất bại!
Sau thất bại của phong trào Cần Vương, chịu
ảnh hưởng của phong trào Duy Tân của Nhật Bản và cách mạng Tân Hợi của Trung
Quốc, đã lôi cuốn nhiều sĩ phu yêu nước hướng ra nước ngoài tìm con đường cứu
nước theo hệ tư tưởng tư sản, tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Là ngọn cờ phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX, lúc đầu, cụ Phan Bội Châu chủ trương lập chế độ
quân chủ lập hiến; 1904, lập Duy Tân hội để khôi phục độc lập dân tộc. Năm
1912, cụ Phan Bội Châu từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến chuyển sang lập
trường dân chủ tư sản với chủ trương lập ra Việt Nam quang phục hội, nhờ Nhật
đuổi Pháp, thành lập cộng hòa dân quốc Việt Nam, con đường cứu nước của cụ Phan
Bội Châu thất bại mà nguyên nhân được tác giả Trần Dân Tiên trong tác phẩm
“Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, đã nhận xét: Con đường đó
chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”[1].
Trong lời tựa của “Phan Bội Châu niên biểu”, cụ Phan đã tự phán: “Than ôi! Lịch
sử của tôi mà làm gì chỉ là một bộ lịch sử toàn thất bại!”[2]
Còn nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành Phan Châu
Trinh đã kịch liệt tố cáo tội ác của bọn quan lại phong kiến, kết tội tên vua
bù nhìn Khải Định, lên án tội ác của thực dân Pháp. Cụ Phan Châu Trinh đưa ra
đường lối cải lương, phản đối bạo lực “bạo lực tắc tử”, chủ trương “khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến. Con
đường của cụ Phan Bội Châu như tiến sĩ luật khoa Phan Văn Trường, ông làm trạng
sư ở Pari, là người Việt Nam đầu tiên tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, ông cho
đăng “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của Mác-Ăngghen trên báo L’Annam mà ông là
chủ bút, ông đã nhận xét con đường của cụ Phan Châu Trinh là “ngày thơ”[3],
GS Trần Văn Giàu nhận xét: “Cụ Tây Hồ (Phan Châu Trinh) tiếng tăm lừng lẫy,
không ai không tin rằng cụ yêu nước chân thành, cụ lại chọn con đường “ỷ Pháp
cầu tiến”, nghĩa là Pháp - Việt đề huề, nghĩa là một ngõ cụt”[4].
Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh đã thất bại. Trần Dân Tiên đánh giá thất
bại của con đường này là: vì sai lầm chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”[5].
Lịch sử dân tộc ta những thập kỷ đầu thế kỷ XX đã chứng minh sự thất bại cay
đắng của con đường cứu nước này!
Sau thất bại của các phong trào Cần Vương, Duy
Tân, của các cuộc khởi nghĩa của nông dân đến thất bại của các phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản vào những năm đầu thế kỷ XX đã thể hiện
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước đã diễn ra sâu sắc và trầm trọng đúng
như Bác Hồ đã tổng kết: “Tình hình đen tối như không có đường ra”. Còn nhà yêu
nước Phan Bội Châu đã diễn đạt bằng hình tượng: “Trời khuya đất ngủ, khói độc
mây mù”. Vấn đề tìm lối ra cho cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước
là nhu cầu vô cùng cấp bách của dân tộc ta!
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành xuất dương đi tìm
con đường cứu nước mới. Quá trình đi tìm con đường cứu nước mới của Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc trải qua những dấu mốc quan trọng sau:
- Dù rất
khâm phục lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần chiến dấu kiên cường chống thực dân
Pháp và triều đình phong kiến thối nát, ươn hèn, làm tay sai cho quân xâm lược
nhưng Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra những hạn chế, những nguyên nhân thất bại của
các phong trào yêu nước đương thời, Người đã vượt qua những hạn chế tầm nhìn
của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, quyết đi
tìm con đường cứu nước mới với ý thức xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp
đồng bào.
- Sau 10
năm bôn ba, khảo sát ở các nước tư bản phát triển như Pháp, Mỹ, Anh… và một số
nước là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, Người đã nhận thức sâu sắc những hạn
chế của các cuộc cách mạng tư sản Pháp, Mỹ…: là những “cuộc cách mạng không đến
nơi”, không giải phóng được công nông và quần chúng lao động. Người hiểu sâu
sắc bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Người ví chúng như con đỉa hai
vòi: một vòi hút máu (bóc lột, áp bức) nhân dân lao động chính quốc, một vòi áp
bức, bóc lột tàn bạo nhân dân các nước thuộc địa.
Năm 1919, thay mặt Hội những người Việt Nam
yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách 8 điểm đến Hội nghị các nước thắng
trận họp ở Véc xây (Pháp) nhưng Tổng thống 4 nước thắng trận ở Hội nghị này,
trong đó có tổng thống Mỹ Uyn xơn (Wilson), tác giả của chương trình 14 điểm về
quyền dân tộc tự quyết, nhưng 4 vị tổng thống này không ai thèm đếm xỉa đến bản
yêu sách đòi những quyền dân sinh dân chủ tối thiểu của Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện
này giúp Người hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uyn xơn chỉ là một trò bịp bợm lớn…” và muốn
được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực
lượng của bản thân mình”[6].
- Thắng
lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (1917) đã mở ra thời đại mới trong lịch
sử loài người: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng vô sản, “Cách mạng tháng Mười vĩ đại đã làm rung chuyển thế giới,
trong đó có Việt Nam…”[7].
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những
người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập
dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?
Tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3)
ra đời có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Tháng 7/1920, Nguyễn
Ái Quốc đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái
Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ lập trường của Lênin và Quốc tế thứ 3. Luận
cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn
Ái Quốc. Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tán thành Quốc thế thứ ba, đặt cách
mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản!
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, bản Luận
cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý của thời
đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và hiện
thực hóa được mục tiêu, lý tưởng cao đẹp: Giải phóng giai cấp, xóa bỏ chế độ
bóc lột, giải phóng xã hội, xóa bất công, giải phóng con người, mang lại tự do,
ấm no, hạnh phúc cho mọi người!
- Từ năm
1921-1930, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình đẩy mạnh các hoạt động:
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở các
lớp huấn luyện đội ngũ cán bộ nòng cốt, đưa họ về nước tuyên truyền giác ngộ,
tập hợp quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân và
các phong trào yêu nước phát triển sâu rộng. Từ năm 1926 đến 1929, Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên đã phát triển từ 300 lên 1700 hội viên, nếu kể cả hội viên
dự bị thì có gần 3000 người. Hội có cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị
trong cả nước, trở thành lực lượng chính trị yêu nước lớn mạnh nhất - chuẩn bị
tiền đề cho việc thành lập Đảng.
Sau khi thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên (6/1925), Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo các bài giảng cho việc mở các
lớp huấn luyện chính trị cán bộ. Đến năm 1927, các tập bài giảng này được in
thành sách, lấy tên là “Đường cách mệnh”. Từ khi đọc sơ thảo của Lênin năm 1920
đến khi xây dựng nội dung cuốn sách này chính là quá trình Nguyễn Ái Quốc phác
thảo Đường cách mệnh” - đường lối cứu nước. Tác phẩm này có những nội dung cơ
bản sau:
- Chỉ có
cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng -
mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội. Muốn
xóa bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự
thì phải qua hai cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.
+ Về lực lượng cách mạng: Công nông là gốc của
cách mạng, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách
mạng là việc chung của cả dân chúng (toàn dân) chứ không phải là việc của một,
hai người.
+ Về phương pháp cách mạng: Giải phóng gông
cùm cho đồng bào, cho nhân loại là công việc “to tát” cho nên phải “dùng hết
sức”, phải “quyết tâm làm thì chắc được”, “thà chết tự do hơn sống làm nô lệ”
nhưng “phải biết cách làm thì mới chóng”. “Cách mệnh trước hết phải làm cho dân
giác ngộ”. Tiếp thu tư tưởng khởi nghĩa vũ trang quần chúng giành chính quyền
đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phát triển tư tưởng “dân
khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”, “đời này
làm chưa xong, đời sau nối theo làm thì phải xong”, do đó, về phương pháp cách
mạng trong Đường cách mệnh là quan điểm cách mạng bạo lực. Nguyễn Ái Quốc chỉ
ra những thiếu sót của những người đi trước như: “Xúi dân bạo động mà không bày
cách tổ chức”, hay “làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường”. Phương
pháp cách mạng đòi hỏi phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào nên
làm, lúc nào chưa.
+ Đoàn kết quốc tế: Đường cách mệnh chỉ rõ: “cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; ai làm cách mạng trên thế
giới là đồng chí của Việt Nam. “Chúng ta cách mệnh thì càng phải liên lạc tất
cả những đảng cách mệnh trong thế gian để chống lại tư bản và đế quốc chủ
nghĩa”. “An Nam muốn cách mệnh thành công thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh đã nhắc lại khẩu hiệu của quốc tế thứ ba: “Giai
cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại!”
Trong tư tưởng đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái
Quốc nhấn mạnh hai điều: Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp
mình đã, lấy sức ta mà giải phóng cho ta; Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ
động giành thắng lợi, không ỷ lại, chờ đợi thắng lợi của cách mạng vô sản. Đây
là bài học đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của
cách mạng Việt Nam.
+ Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mệnh,
Đảng có vững thì mới thành công. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam!”.
Những nội dung cơ bản của Đường cách mệnh được
Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình truyền bá, giảng dạy, huấn luyện cho
cán bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sơ thảo đường lối cứu nước này đã
được Hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tuyên truyền sâu rộng, tập họp
tổ chức quần chúng thúc đẩy phong trào cách mạng của công nhân, nông dân từ
1925 đến 1930 lên cao. Phong trào cách mạng dâng cao đòi hỏi phải có sự lãnh
đạo của đội tiên phong cách mạng, có đủ bản lĩnh để lãnh đạo cuộc cách mạng của
toàn dân tộc. Những cán bộ tiêu biểu của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã
sớm nắm bắt được nhu cầu lịch sử này của giai cấp công nhân và của dân tộc.
17/6/1929, Đông Dương cộng sản đảng thành lập ở Hà Nội. Mùa thu 1929, An Nam
cộng sản đảng ra đời. Ngày 1/1/1930, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời từ
trong phái “tả” của Đảng Tân Việt.
Những người cộng sản của ba tổ chức này đã
đánh giá về nhau không đúng nên dẫn đến những hoạt động phân tán và chia rẽ về
tổ chức của phong trào. Khắc phục sự phân tán, chia rẽ về mặt tổ chức là nhiệm
vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản và cũng là đòi hỏi khẩn
thiết của cách mạng Việt Nam lúc này. Ngày 27/10/1929, quốc tế cộng sản đã gửi
chỉ thị cho các nhóm cộng sản Việt Nam, nói rõ: ở Đông Dương cần có một Đảng
cộng sản duy nhất. Nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu
tập các đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng bàn việc
hợp nhất. Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng họp ở
bán đảo Cửu Long (Hương Cảng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, với sự tham
gia của 2 đại biểu Đông Dương cộng sản đảng, 2 đại biểu An Nam cộng sản đảng và
2 đại biểu ngoài nước. Hội nghị nhất trí với đề xuất của Nguyễn Ái Quốc, hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng
cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã nhất trí thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ văn tắt của Đảng do Nguyễn Ái
Quốc khởi thảo, đây là Cương lĩnh và Điều lệ đầu tiên của Đảng ta.
Những nội dung chủ yếu của các văn kiện trên
là:
- Cách
mạng Việt Nam là “tư sản dân quyền cách mạng” và “thổ địa cách mạng”… để đi tới
xã hội cộng sản.
- Đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập.
- Thâu hết sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho Chính phủ công nông binh.
- Quốc hữu hóa toàn bộ đồn
điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam chia cho
nông dân nghèo.
- Tổ chức
quân đội công nông.
- “Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân
Việt v.v… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (Đảng lập hiến…) thì phải đánh đổ…
Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất
cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào
đường thỏa hiệp. Trong khi tuyên truyền các khẩu hiệu nước An Nam độc lập phải
đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản
giai cấp Pháp”[8].
- Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24/2/1930,
Đông Dương cộng sản liên đoàn cũng hợp nhất vào Đảng cộng sản Việt Nam.
Việc quy tụ 3 tổ chức cộng sản thành một đảng
cộng sản duy nhất ở Việt Nam và nhất trí thông qua cương lĩnh, điều lệ đầu tiên
- thông qua được đường lối cứu nước, cứu dân đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng
người, dẫn đến sự thống nhất về tư tưởng và hành động của phong trào cách mạng
cả nước, tạo nên truyền thống đoàn kết của Đảng và dân tộc từ đó về sau.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và thông qua
cương lĩnh - Đường lối cứu nước đúng đắn - đường lối giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, đúng
như sự đánh giá của nhà tư tưởng, nhà yêu nước Phan Bội Châu: “May thay! Đương
giữa lúc khí độc mây mù, thình lình có trận gió xuân thổi tới. Chính giữa lúc
trời khuya đất ngủ, thình lình mà có một tia thái dương mọc ra. Trận gió xuân
ấy, tia thái dương ấy là chủ nghĩa xã hội vậy”[9].
Sau khi ra đời, Đảng ta công bố Chính cương và
Sách lược vắn tắt, công bố đường lối giành độc lập dân tộc, xóa áp bức, bóc lột
mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã được nhân dân Việt Nam đồng
tình, ủng hộ. Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đã lựa chọn sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đi theo con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn.
15 năm sau khi ra đời, với đường lối cứu nước
đúng đắn, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng
Việt Nam thông qua ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930-1931, cao
trào vận động dân chủ, chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến
tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình (1936-1939) và cao trài cách mạng giải phóng
dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945).
Cách mạng tháng Tám là một trong những trang
sử vẻ vang nhất, chói lòa nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta. Cách mạng tháng Tám đập tan ách thống trị của thực dân Pháp trong 87 năm,
lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nguồn: dangcongsan.vn