Ngày 5 tháng 6 năm 1911, với tên Văn Ba,
người thanh niên ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam rời mẹ Tổ quốc, lên tàu
Latouche Tréville, mở đầu cuộc hành trình vạn dặm quyết tâm tìm đường cứu nước,
cứu dân và đã tìm ra con đường duy nhất đúng, phù hợp với nguyện vọng của nhân
dân Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại - con đường cách mạng vô sản.
Có rất nhiều vấn đề cần tìm hiểu, giải đáp một cách tường minh
xung quanh sự kiện lịch sử quan trọng Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước ngày
5-6-1911, trong đó vấn đề động lực thúc đẩy Nguyễn Tất Thành rời xa quê hương,
Tổ quốc để tìm ra chân lý độc lập, tự do thật sự cho dân tộc Việt Nam là vấn đề
rất hệ trọng. Với cách nhìn khách quan, khoa học, có khẳng định rằng, sự kiện
Nguyễn Tất Thành rời xa quê hương, Tổ quốc tìm đường cứu nước, cứu dân cách đây
105 năm là kết quả tất yếu của hệ thống động lực chủ yếu sau:
Tàu Amiral Latouche Tréville, con tàu đã đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước từ Cảng Sài Gòn. (Ảnh tự liệu)
1. Yêu nước, thương dân là động lực chủ yếu, xuyên suốt cuộc hành
trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước tiến bộ và được giáo
dưỡng bởi những người thân có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc; lớn lên trên
quê hương Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An - mảnh đất địa linh nhân kiệt và giàu
truyền thống cách mạng, Nguyễn Tất Thành đã thừa hưởng những giá trị văn hóa
tinh túy nhất của gia đình, quê hương, dân tộc; hấp thụ những nhân tố mới của
thời đại và đã hình thành những phẩm chất ưu tú, tạo nên một nhân cách mới.
Lòng yêu nước, thương dân ở Người không chỉ dừng lại trong quan niệm truyền
thống “trung quân”, “ái quốc”, “thương nòi” mà đã hòa quyện với một cơ sở xã
hội mới, với những nhân tố mới mà Người đã học hỏi và tích lũy từ rất sớm. Đó
là nền “tân học”, sự thấu hiểu con người - mà chủ yếu là người lao động nghèo
khổ đang rên xiết dưới gót giầy ngoại xâm và bọn phong kiến tay sai phản động
bán nước... Tất cả những yếu tố ấy hòa quyện với nhau tạo nên tình cảm yêu
nước, thương dân tha thiết, giúp Người nâng cao nhận thức, hiểu biết về con
người, xã hội, vận nước; từ đó hình thành ở Người sự ham muốn tích cực, thái độ
tiến bộ đối với vận mệnh của dân tộc.
Ngay từ lúc mới mười ba tuổi, Người đã bị thu hút khi nghe những
từ “tự do - bình đẳng - bác ái” và có ý định muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, “muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Bởi nỗi trăn trở lớn
luôn đau đáu trong tư duy, tình cảm của Người là ở “mẫu quốc” xa xôi ấy con
người được “tự do, bình đẳng, bác ái”, nhưng vì sao thực dân Pháp lại đem quân
sang xâm lược Việt Nam và đối xử với nhân dân ta vô cùng bất công, tàn bạo? Câu
hỏi ấy càng bồi đắp lòng yêu nước, thương dân, mà Người đã xem như là máu thịt
của mình. Chính động lực ấy đã thúc đẩy ý chí của Người “phải sang nước Pháp để
tìm hiểu, để xem xét và trở về giúp đồng bào mình”.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng 12-1920. (Ảnh tư liệu)
2. Quyết tâm tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách
thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai là động lực trực tiếp thúc
đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta, thực dân Pháp câu kết
với triều đình nhà Nguyễn bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, nhân dân ta
chịu cảnh nước mất, nhà tan, “một cổ hai tròng”. Điều đó tất yếu dẫn đến những
cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc bùng nổ khắp nơi, với nhiều phương pháp và
xu hướng khác nhau. Tiêu biểu có: xu hướng bạo động hướng ngoại với phong trào
Đông du; xu hướng cải cách với phong trào Đông kinh nghĩa thục, cuộc vận động
Duy tân; xu hướng bạo động hướng nội bảo thủ với cuộc khởi nghĩa Yên Thế… Nhưng
các xu hướng cứu nước ấy đều bị đàn áp và dìm trong bể máu. Cách mạng Việt Nam
rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước, đòi hỏi tất yếu phải có
một phương hướng cứu nước mới. Như vậy, hiện thực xã hội Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX đã tác động trực tiếp đến tư tưởng cứu nước và chí hướng
cách mạng của Nguyễn Tất Thành.
Quyết tâm tìm ra con đường cứu nước mới của Nguyễn Tất Thành đã
vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu nước cùng thời. Đó không phải là
“ngẫu nhiên” hay “may rủi”, mà quyết định đó dựa trên cơ sở vững chắc của cách
nhìn nhận thấu đáo vấn đề cấp bách của xã hội Việt Nam lúc ấy “phải đưa dân tộc
thoát khỏi tình cảnh đen tối như không có đường ra”. Mặc dù vô cùng kính trọng
và khâm phục tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu nhằm khôi phục nền độc lập dân
tộc của các sĩ phu yêu nước, các vị tiền bối, nhưng Người vẫn nhận thấy những
mặt hạn chế của họ không phù hợp với tình hình mới. Phan Bội Châu muốn dựa vào
Nhật để đánh Pháp khác nào “đuổi hùm cửa trước, rước sói cửa sau”; Phan Châu
Trinh muốn dựa vào chính thực dân Pháp để đánh đổ phong kiến Nam triều và cải
cách canh tân đất nước thì “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”; người
anh hùng nông dân áo vải Hoàng Hoa Thám dựng cờ khởi nghĩa gần 30 năm
(1884-1913) vẫn còn “nặng cốt cách phong kiến”, chủ trương đánh đổ thực dân
Pháp nhưng khôi phục lại chế độ phong kiến. Những nhận định, đánh giá đó là kết
quả của một quá trình trăn trở, suy nghĩ, tìm hiểu, đối chiếu, so sánh công phu
của một tư duy độc lập, nhạy cảm với thời cuộc. Mặt khác, với vốn Hán học khá
tinh thông được thừa hưởng từ những người thầy, nhất là Cụ Hoàng Đường và Cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Người rất hiểu một đạo lý của người phương Đông nói
chung và Việt Nam nói riêng “muốn bắt hổ con thì phải vào hang hổ”. Như vậy,
quyết tâm giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng mới là động lực trực tiếp
hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Từ người tìm đường trở thành
người dẫn đường cho dân tộc Việt Nam đến mục tiêu - độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
“Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
3. Tìm và xác định lực lượng xứng đáng giữ vị trí lãnh đạo cách
Việt Nam là động lực tác động đến nhận thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh trong
hành trình tìm đường cứu nước.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam rơi vào cuộc khủng
hoảng về đường lối cách mạng và giai cấp lãnh đạo. Người luôn trăn trở với câu
hỏi: Ai sẽ là người lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân?
Người tâm sự “Lúc bấy giờ ông cụ thân sinh ra tôi và nhiều người khác thường
hỏi nhau rằng ai sẽ là người sẽ đứng ra cứu nước, cứu dân? Có người thì cho là
người Nhật, người khác lại cho là người Anh… Vậy làm thế nào bây giờ?”[1].
Chính trong thời điểm ấy, ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp hoàn toàn mới -
giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời do chính sách khai thác
thuộc địa của chủ nghĩa tư bản Pháp. Với tinh thần luôn hướng đến cái mới, cái
tiến bộ và niềm tin vào lực lượng mới, nhất là khi đứng trên lập trường, quan điểm
chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã nhận định chỉ có giai cấp công nhân công nghiệp
là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thành công.
Bởi, “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập
thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản
xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội
mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo
dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành
động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo”[2]. Do đó, tìm và xác định
đúng lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là động lực trực tiếp thúc đẩy hành
trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
4. Ý chí, hoài bão, niềm tin tất thắng vào sức mạnh dân tộc Việt
Nam là động lực bên trong nuôi dưỡng, thúc đẩy hành trình tìm đường cứu nước
của Hồ Chí Minh.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, Người xác định rõ mục đích cao cả là
tìm đường cứu nước, cứu nòi giống khỏi ách áp bức thống trị của thực dân đế
quốc và tay sai. Đây hoàn toàn không phải là “cuộc phiêu lưu mạo hiểm, vì miếng
cơm, manh áo” như những luận điệu phản động xuyên tạc, mà đó là sự hội tụ đầy
đủ ý chí, nghị lực phi thường, hoài bão lớn và niềm tin tất thắng về sức mạnh
yêu nước, đoàn kết, kiên cường đấu tranh của dân tộc Việt Nam có truyền thống
mấy ngàn năm chống giặc ngoại xâm.
Một nhà sử học người Pháp nghiên cứu về cách mạng Việt Nam đã nhận
xét: “Khi ông rời Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc không biết rằng ông đang bằng phương
Tây để đi tìm phương Đông của ông. Ông hy vọng rằng sẽ sớm trở về Việt Nam để
truyền bá những điều đã học hỏi được và đấu tranh. Ông sẽ chỉ về 30 năm sau
(năm 1941), sau chuyến đi vòng quanh thế giới, ông đã bắt gặp chủ nghĩa Mác
cách mạng thế giới và từ đó sẽ sinh ra một tinh thần dân tộc mới”[3]. Người
luôn khẳng định: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho dân tộc tôi và hạnh phúc cho
đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”.
Như vậy, với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, ý chí quyết tâm
giành độc lập dân tộc, nhận thức đầy đủ hiện thực xã hội, vận mệnh lịch sử đặt
ra đối với dân tộc Việt Nam và những nhân tố mới của thời đại, Nguyễn Tất Thành
đã quyết định xuống tàu, rời bến cảng Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành trình tìm
đường cứu nước, cứu dân. Đây là quyết định táo bạo và đầy sáng tạo được thúc
đẩy bằng tổng hợp các động lực, trở thành nền tảng vững chắc giúp Người vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ để tìm thấy con đường giải phóng dân tộc đúng đắn,
hợp quy luật tất yếu của lịch sử giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô
sản.
105 năm đã trôi qua, ngày 5 tháng 6 năm 1911 không chỉ đánh dấu
bước ngoặt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, mà còn ghi vào lịch sử
dân tộc ta thời khắc chuyển mình phát triển theo hướng mới, được dẫn dắt bởi
người Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới - Hồ Chí Minh.
-------------------------
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 1, tr. 477.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.212.
[3] Xem: GS Đinh Xuân Lâm Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008, tr.87-88.
Website Trung Ương Đoàn - www.doanthanhnien.vn